Ngày 27/7/1953, tướng Mỹ W. K. Harrison Jr. và tướng Nam Il của Triều Tiên ký hiệp định ngừng bắn, chấm dứt xung đột quân sự trên bán đảo Triều Tiên. Đây là kết quả của quá trình đàm phán kéo dài hai năm và 17 ngày với 158 cuộc họp, khiến nó trở thành hiệp định đình chiến được thảo luận lâu nhất trong lịch sử hiện đại, theo Bloomberg.
Khi Thế chiến II kết thúc, bán đảo Triều Tiên bị chia thành hai miền bằng vĩ tuyến 38, trong đó miền bắc được đặt dưới quyền quản lý của Liên Xô, còn miền nam do Mỹ kiểm soát. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ ngày 25/6/1950, giao tranh chủ yếu nổ ra ở phía nam vĩ tuyến 38.
Tổng thống Mỹ Harry S. Truman cho rằng đây là kế hoạch của Liên Xô nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng, nên Mỹ lập tức soạn thảo nghị quyết Liên Hợp Quốc kêu gọi thành lập liên minh quân sự bảo vệ Hàn Quốc với lực lượng chủ chốt là quân đội Mỹ. Nghị quyết nhanh chóng được thông qua mà không có phiếu phủ quyết bởi Liên Xô khi đó đang tẩy chay Hội đồng Bảo an nhằm phản đối việc Trung Quốc không được chấp thuận vào cơ quan quyền lực này.
Chỉ trong vài ngày, các lực lượng hải, lục, không quân Mỹ dưới danh nghĩa quân Liên Hợp Quốc đổ vào Hàn Quốc tham chiến. Trong giai đoạn đầu, chiến thuật của Mỹ và đồng minh là bảo vệ phần lãnh thổ còn lại ở Pusan và từng bước đẩy lui quân Triều Tiên. Sau đó, liên quân Mỹ - Hàn phản công và đánh bật quân Triều Tiên qua vĩ tuyến 38.
Chiến sự sau đó chủ yếu diễn ra trên lãnh thổ Triều Tiên. Liên quân Mỹ - Hàn có lợi thế về công nghệ, hỏa lực đã nhanh chóng dồn ép quân đội Triều Tiên đến sát biên giới Trung Quốc. Lo ngại nguy cơ bị xâm lược, Bắc Kinh quyết định tham chiến, cử các đơn vị chí nguyện quân sang Triều Tiên để đẩy lùi liên quân.
Với sự tham gia của 250.000 quân Trung Quốc từ cuối năm 1951, Chiến tranh Triều Tiên rơi vào thế bế tắc khi không bên nào thực sự chiếm được lợi thế chiến lược và chủ yếu thực hiện các trận đánh tiêu hao sinh lực đối phương.
Tình thế giao tranh giằng co kéo dài suốt một năm gây tổn thất rất lớn, khiến Truman muốn chấm dứt chiến tranh, tìm cách đàm phán hòa bình với các bên. Tuy nhiên, không bên nào nhất trí về thỏa thuận hòa bình, nên cuộc chiến tiếp tục kéo dài thêm hai năm nữa. Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1952, ứng viên đảng Cộng hòa Dwight D. Eisenhower đã chỉ trích mạnh mẽ cách xử lý cuộc chiến của Truman.
Sau khi đắc cử, Eisenhower thực hiện lời hứa "tới Hàn Quốc". Chuyến thăm này khiến tổng thống Mỹ nhận thấy cần phải làm điều gì đó để phá vỡ bế tắc ngoại giao trong các cuộc đàm phán hòa bình được khởi xướng từ tháng 7/1951.
Eisenhower nhiều lần công khai ám chỉ Mỹ sẽ dùng vũ khí hạt nhân để phá thế giằng co trên chiến trường, đồng thời gây áp lực lên đồng minh Hàn Quốc và yêu cầu nước này từ bỏ một số yêu cầu để tăng tốc đàm phán hòa bình.
Không rõ lời đe dọa tấn công hạt nhân có tác dụng đến đâu, song tới tháng 7/1953, tất cả các bên liên quan trong cuộc xung đột đã sẵn sàng ký một thỏa thuận nhằm chấm dứt đổ máu. Chiến sự vẫn diễn ra suốt thời gian này, khiến lực lượng Liên Hợp Quốc chịu 140.000 thương vong, trong đó quân đội Mỹ có hơn 8.000 binh sĩ thiệt mạng.
Ngày 27/7/1953, hiệp định đình chiến được tướng Nam Il, đại diện quân đội Triều Tiên và chí nguyện quân Trung Quốc cùng tướng Mỹ William K. Harrison Jr., đại diện quân Liên Hợp Quốc ký tại phòng đàm phán ở làng Panmunjom nằm giữa biên giới Triều Tiên và Hàn Quốc, chấm dứt gần ba năm giao tranh đẫm máu.
Theo hiệp định, một ủy ban giám sát với đại diện từ các quốc gia trung lập sẽ quyết định số phận hàng nghìn tù binh bị hai phe bắt. Ủy ban này cuối cùng tuyên bố các tù binh được lựa chọn ở lại hoặc quay về quê hương.
Hai bên cũng nhất trí chấm dứt mọi hành động thù địch công khai và rút lực lượng quân sự lùi sâu hai km tại vị trí đang kiểm soát, tạo ra khu phi quân sự (DMZ) rộng 4 km dọc đường biên giới mới phân chia hai miền.
Nhiều tướng Mỹ vốn đã quen việc buộc kẻ thù đầu hàng vô điều kiện tỏ ra không hài lòng khi phải chấp nhận một kết cục "không bên nào thắng" trong Chiến tranh Triều Tiên. Nhiều người còn đặt dấu hỏi về việc Washington không dùng vũ khí hạt nhân hoặc tấn công sang lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, quan chức chính phủ Mỹ dường như hiểu rất rõ hậu quả của hành động này, khi nó có nguy cơ dẫn tới Thế chiến III.
Hàn Quốc liên tục phản đối và không tham gia ký hiệp định, do Tổng thống Syngman Rhee từ chối chấp nhận bất cứ thỏa thuận nào chia cắt bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc cũng không đặt bút ký vào văn bản, vì Bắc Kinh luôn cho rằng cuộc chiến là vấn đề giữa Triều Tiên và Mỹ.
Washington và Seoul ký hiệp ước phòng thủ chung vài tháng sau đó, nhằm đối phó tình trạng quân đội Triều Tiên và Trung Quốc tập trung phía bắc DMZ. Quốc hội Mỹ phê chuẩn hiệp ước đồng minh này vào năm 1954, xây dựng nền tảng chiến lược cho quan hệ đồng minh và chính trị giữa Mỹ với Hàn Quốc.
Hiệp định đình chiến giúp chấm dứt cuộc chiến cướp đi sinh mạng của hàng triệu người Triều Tiên và Trung Quốc, cũng như hơn 50.000 lính Mỹ. Tuy nhiên, đây chỉ là thỏa thuận ngừng bắn được ký giữa các lực lượng quân sự, không phải hiệp ước được thống nhất giữa các chính phủ và được quốc hội các nước phê chuẩn.
Đây là điều khiến Triều Tiên và liên quân Mỹ - Hàn trên lý thuyết vẫn trong tình trạng chiến tranh dù tiếng súng đã ngừng gần 7 thập kỷ, do các bên chưa đạt được hiệp ước hòa bình. Việc đạt được một tuyên bố chính thức chấm dứt cuộc chiến này dường như là mục tiêu quan trọng mà Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un mong muốn đạt được trong hội nghị thượng đỉnh lần hai sắp diễn ra tại Hà Nội.
"Xung đột sẽ không kết thúc cho tới khi các chính phủ đạt được một thỏa thuận chính trị vững chắc", tướng Mark W. Clark, chỉ huy lực lượng Liên Hợp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, phát biểu sau lễ ký hiệp định ngừng bắn.