Trên thực tế, một số người thậm chí có thể đi lại bằng chân bị gãy tùy thuộc vào vị trí chấn thương. Dù tất cả các trường hợp gãy xương đều gây ra đau đớn, có 4 dấu hiệu khác có thể giúp nhận biết xương bị gãy.
Bầm tím
Bầm tím là hiện tượng chảy máu bên dưới da xảy ra khi các mạch máu nhỏ bị vỡ do chấn thương. Tình trạng này có thể xảy ra với hầu hết mọi loại tổn thương mô và có thể là dấu hiệu của gãy xương nhỏ lẫn gãy xương lớn.
Khi bị gãy xương, máu cũng có thể tự chảy ra từ xương gãy. Với những trường hợp gãy xương nghiêm trọng hơn, máu bị rò rỉ có thể gây ra vết bầm tím trên diện rộng. Các vết bầm tím lúc đầu có xu hướng chuyển sang màu vàng khi vết thương lành.
Sưng tấy
Sưng cũng có thể là dấu hiệu của gãy xương. Chấn thương có thể tạo ra chất lỏng và đôi khi máu rò rỉ vào các mô mềm như cơ, mỡ và da. Tất cả lượng chất lỏng dư thừa đó làm cho các mô mềm sưng lên.
Thay đổi ở bên ngoài
Khi cánh tay hoặc chân uốn cong ở những vị trí khác thường, rất có thể bạn đã bị gãy xương. Nếu xương nhô ra ngoài da, có thể đó là dấu hiệu gãy xương và trật khớp. Loại chấn thương này còn được gọi là gãy xương kép hoặc gãy xương hở.
Trật khớp liên quan đến một khớp, như đầu gối. Trật khớp có thể gây ra những hệ quả nghiêm trọng hơn cả gãy xương. Hầu hết trường hợp xương gãy vẫn ở gần vị trí của nó. Trật khớp gây ra căng và đôi khi thậm chí làm rách dây chằng và gân. Nếu nghĩ rằng mình bị trật khớp, hãy liên hệ với bác sĩ ngay lập tức.
Xương kêu cót két
Âm thanh cót két hoặc kèn kẹt do xương cọ xát vào nhau có thể là do các mảnh xương bị gãy cọ xát với nhau. Nếu nghe thấy âm thanh này và có các triệu chứng khác, rất có thể bạn đã bị gãy xương.
Hãy tìm kiếm sự trợ giúp y tế nếu: chấn thương ảnh hưởng đến đầu hoặc cột sống; gãy xương ảnh hưởng đến một xương lớn, chẳng hạn như xương đùi; gãy xương có cảm giác vô cùng đau đớn do vết gãy lớn; xương đục qua da; một chi rõ ràng bị lệch.
Bác sĩ sẽ chụp X-quang để xác định rõ phần xương bị gãy và hướng dẫn điều trị cụ thể. Phương pháp METH có thể áp dụng, bao gồm:
Di chuyển chấn thương: Uốn cong và kéo dài vùng bị thương hết mức có thể.
Nâng cao: Nâng cánh tay hoặc chân bị thương lên cao hơn tim.
Kéo: Đây là một kỹ thuật mà người bị thương sử dụng trọng lực và ròng rọc để kéo xương vào thẳng hàng. Điều này chỉ nên thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ.
Chườm nóng lên khu vực chấn thương.
Tránh dùng thuốc chống viêm nếu bị gãy xương, do quá trình viêm vốn là phản ứng chữa lành của hệ thống miễn dịch.
Có thể người bệnh phải dùng nẹp tạm thời, bó bột và quyết định xem có cần phẫu thuật hay không. Nghỉ ngơi hợp lý và tuân theo hướng dẫn của bác sĩ sẽ giúp lành xương.
Anh Ngọc (Theo Very Well Health)