Hai phương án chính trong điều trị gãy xương là bảo tồn và phẫu thuật. Những trường hợp gãy xương không di lệch, di lệch ít sẽ được điều trị bảo tồn bằng cách bó bột hoặc dùng nẹp để cố định xương gãy và duy trì sự lành xương. Ngược lại, nếu gãy xương lớn, hai đầu xương gãy lệch nhau, người bệnh sẽ được chỉ định phẫu thuật. Lúc này, bác sĩ sẽ lắp các dụng cụ kết hợp xương vào để nắn chỉnh hai đầu xương gãy về lại đúng vị trí vốn có, cố định bất động để giúp xương nhanh lành hơn và phục hồi chức năng ban đầu trước khi gãy xương.
Các dụng cụ kết hợp xương bao gồm đinh, nẹp, vít... thường được làm từ thép không gỉ và phủ bên ngoài bằng một lớp coban hoặc titanium để tránh ảnh hưởng về mặt y tế; hoặc làm bằng chất liệu sinh học. ThS.BS.CKI Mai Hoàng Dương, Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình, Hệ thống BVĐK Tâm Anh, cho biết, ưu điểm nổi bật của dụng cụ kết hợp xương làm từ chất liệu sinh học là có thể tan dần theo thời gian mà không cần phẫu thuật để lấy ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, vì giá thành cao nên dụng cụ kết hợp xương làm từ chất liệu sinh học không phổ biến tại Việt Nam bằng dụng cụ làm từ thép không gỉ.
![Dụng cụ kết hợp xương cần được lấy ra khỏi cơ thể theo đúng thời gian chỉ định để giảm thiểu nguy cơ phát sinh biến chứng. Ảnh: Freepik](https://vcdn1-suckhoe.vnecdn.net/2022/11/14/nep-vit-2940-1668418180.png?w=0&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=R3SIEaCvJGNTpEmAExgbaQ)
Dụng cụ kết hợp xương cần được lấy ra khỏi cơ thể theo đúng thời gian chỉ định để giảm thiểu nguy cơ phát sinh biến chứng. Ảnh: Freepik
Trên nguyên tắc, sau khi các tổn thương xương đã lành và đảm bảo xương đã vững chắc thì có thể lấy các đinh, nẹp ra. Thông thường là 6 tháng đối với những trường hợp sử dụng đinh nhỏ và sau 1 - 1,5 năm đối với những loại vít, đinh, nẹp lớn hoặc đinh nội tủy.
Bác sĩ Hoàng Dương khuyến cáo, nếu tháo dụng cụ quá sớm, tổn thương ở xương chưa lành hẳn, thì sau khi tháo, người bệnh có nguy cơ gãy xương lại. Ngược lại, nếu tháo quá trễ, lúc này canxi do cơ thể sản sinh ra đã bám chặt vào xung quanh nẹp vít, từ đó gây khó khăn cho việc lấy dụng cụ kết hợp xương ra khỏi cơ thể và làm tăng nguy cơ nứt, gãy xương. Đồng thời, người bệnh còn có thể đối mặt với các vấn đề sức khỏe khác như nhiễm kim loại nặng do các vật chất kim loại của dụng cụ kết hợp xương phân tán ra và đi vào trong cơ thể; gây đau buốt, khó chịu khi thời tiết trở lạnh vì nẹp vít làm bằng kim loại, bị giảm nhiệt do thay đổi nhiệt độ.
Cũng như bất kỳ cuộc phẫu thuật nào khác, lấy dụng cụ kết hợp xương ra khỏi cơ thể cũng có thể tồn tại một số nguy cơ biến chứng như đau, nhiễm trùng vết mổ, sẹo, huyết khối, khó đi tiểu... Riêng đối với các thủ thuật tháo nẹp xương, người bệnh có thể phải đối mặt thêm với các rủi ro như không thể loại bỏ tất cả các đinh, nẹp... ra khỏi cơ thể vì những dụng cụ này đã bị hư hỏng, cố định hoặc bám quá chắc vào xương; tổn thương các dây thần kinh gần kề tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn tới yếu, tê, đau; yếu xương... Do đó, nhằm đảm bảo an toàn, phòng ngừa biến chứng, người bệnh nên lựa chọn những cơ sở y tế uy tín để thực hiện lắp và tháo dụng cụ kết hợp xương.
![Bác sĩ Hoàng Dương kiểm tra cho người bệnh sau khi thực hiện phẫu thuật kết hợp xương. Ảnh: BVĐK Tâm Anh](https://vcdn1-suckhoe.vnecdn.net/2022/11/14/2022-11-11-10-19-24-Q9kBZzAK4n-2933-1668418180.jpg?w=0&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=vXJslFoibennnZVA6UXcZQ)
Bác sĩ Hoàng Dương kiểm tra cho người bệnh sau khi thực hiện phẫu thuật kết hợp xương. Ảnh: BVĐK Tâm Anh
Sau khi tháo dụng cụ kết hợp xương, người bệnh có thể sinh hoạt và làm việc bình thường vì lúc này, trên cơ bản, những tổn thương ở xương đã lành lại. Tuy nhiên, đối với những trường hợp phải sử dụng nẹp vít quá dài, bắt từ 10 - 15 vít vào xương thì sau 2 - 3 tháng, người bệnh mới có thể vận động mạnh trở lại. Tình trạng này là do sau khi lấy vít ra khỏi cơ thể, sẽ hình thành những lỗ hổng trên xương. Khi đó, cơ thể cần khoảng 2 - 3 tháng để canxi lấp đầy những lỗ hổng này, làm cho xương chắc khỏe hơn.
Phi Hồng