Trả lời:
Polyp cổ tử cung là những khối u hình thành do sự phát triển quá mức các tế bào ở lớp tuyến và mô đệm nội mạc tử cung. Khối polyp thường có màu đỏ nhạt, đỏ tía hoặc xám, hình tròn hoặc hình bầu dục nhô ra khỏi cổ tử cung; kích thước từ vài mm đến vài cm hoặc lớn hơn, kết cấu mịn hoặc hơi xốp, dễ chảy máu khi chạm vào. Một số polyp có cuống dài và mỏng.
Tình trạng polyp cổ tử cung thường xảy ra ở khoảng 2-5% nữ giới, nhất là trong độ tuổi sinh sản, thời kỳ mãn kinh. Bệnh ít gặp ở nữ giới dưới 20 tuổi. Một người có thể có một hoặc đa polyp.
Bệnh hình thành khi mang thai do nhiều yếu tố. Nguyên nhân hàng đầu là sự gia tăng nồng độ hormone estrogen gây rối loạn nội tiết tố nữ. Thai phụ có tiền sử lạc nội mạc tử cung chưa điều trị dứt điểm, sau khi lớp niêm mạc bị bong tróc nhưng không được đào thải ra ngoài sẽ dính vào các bộ phận khác như tử cung hoặc cổ tử cung, từ đó hình thành polyp.
Khi mang thai, sức đề kháng của người mẹ giảm sút, vệ sinh vùng kín không đúng cách dẫn đến các bệnh viêm nhiễm phụ khoa. Nếu không can thiệp điều trị đúng cách và hiệu quả sẽ tạo cơ hội hình thành các khối polyp. Hệ quả của việc nạo phá thai không an toàn tại những cơ sở y tế không uy tín, làm sót nhau thai trong tử cung cũng làm tăng nguy cơ xuất hiện tình trạng này.
Polyp cổ tử cung thường lành tính, hiếm khi ác tính. Tỷ lệ khối u ung thư hóa ở thai phụ khoảng 1,7%, phụ nữ giai đoạn tiền mãn kinh khoảng 1-2% và sau mãn kinh là 5-6%.
Polyp xuất hiện không gây triệu chứng điển hình. Một số trường hợp người bệnh ra máu âm đạo sau mãn kinh hoặc khi mang thai, kinh nguyệt không đều... Nếu tình trạng xuất huyết kéo dài có thể gây thiếu máu mạn tính.
Bệnh làm tăng tiết dịch âm đạo, là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật có hại phát triển, dẫn đến các bệnh phụ khoa như viêm âm hộ, viêm âm đạo, viêm cổ tử cung... Phụ nữ chưa có thai có nhiều polyp hoặc polyp kích thước lớn có thể bị vô sinh, hiếm muộn do làm cản trở sự di chuyển của tinh trùng, khả năng làm tổ của trứng sau khi thụ tinh.
Trường hợp polyp bị hoại tử hoặc viêm nhiễm lan rộng ra nội mạc tử cung, cơ tử cung có thể làm tăng nguy cơ ung thư tử cung, ung thư cổ tử cung. Lúc này, dịch tiết âm đạo thường có mủ và mùi hôi.

Phụ nữ mang thai bị viêm nhiễm phụ khoa nếu không điều trị có thể hình thành polyp tử cung. Ảnh: Freepik
Bệnh có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thai phụ và thai nhi tùy theo vị trí và kích thước. Nếu khối polyp kích thước lớn hoặc đa polyp, người mẹ đối mặt với nguy cơ như viêm nhiễm âm đạo, xuất huyết âm đạo trong quá trình mang thai, tăng nguy cơ nhau tiền đạo, nhiễm trùng, viêm màng ối, tăng chảy máu khi chuyển dạ, sẩy thai, sinh non. Nếu khối u bịt kín cổ tử cung khiến thai phụ khó sinh thường.
Đối với thai nhi, khi khối polyp phát triển tăng dần về kích thước hoặc số lượng, gây chèn ép, cản trở phát triển, tăng nguy cơ bị dị tật hoặc sẩy thai, sinh non. Một nghiên cứu của Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em Osaka, Nhật Bản, năm 2022 trên 92 thai phụ phát hiện polyp cổ tử cung trước tuần thai thứ 12 cho thấy, tỷ lệ sinh non trước 34 tuần ở người mắc bệnh là 5,4%, trong khi ở phụ nữ không có polyp, tỷ lệ này là 0,7%.
Với khối polyp nhỏ dưới 5 mm, không gây triệu chứng hoặc không có yếu tố nguy cơ ác tính, mẹ bầu sẽ tạm thời sống chung. Phẫu thuật cắt bỏ polyp chỉ thực hiện sau khi sinh xong, tránh nguy cơ viêm nhiễm hoặc sẩy thai.
Với polyp kích thước lớn trên 5mm, tiềm ẩn nguy cơ ác tính, bác sĩ cân nhắc phương pháp phẫu thuật thích hợp, sau khi cắt bỏ sẽ kiểm tra tế bào ung thư.
Polyp cổ tử cung có thể tự biến mất nhưng cũng có nguy cơ tăng lên cả về kích thước lẫn số lượng nếu phụ nữ bị béo phì (chỉ số BMI trên 30), tăng huyết áp, sử dụng thuốc điều trị ung thư vú, liệu pháp thay thế hormone có liều lượng estrogen cao, mắc hội chứng lynch hoặc hội chứng cowden.
Chẩn đoán, đánh giá và điều trị polyp cổ tử cung khi mang thai cần có chỉ định từ bác sĩ sau khi khám. Người bệnh không tự ý sử dụng thuốc hoặc áp dụng bất cứ phương pháp điều trị dân gian.
Để đảm bảo sức khỏe thai kỳ, bạn nên chú ý vệ sinh vùng kín sạch sẽ, chọn dung dịch vệ sinh phù hợp, dịu nhẹ, không chất tẩy rửa. Không thụt rửa trong âm đạo hoặc ngâm mình quá lâu trong bồn tắm. Sau khi đi vệ sinh nên vệ sinh từ trước ra sau, nghỉ ngơi hợp lý, vận động nhẹ nhàng. Xây dựng chế độ dinh dưỡng khoa học cũng là cách tăng cường sức đề kháng cho thai phụ phụ và thai nhi.
BS.CKI Nguyễn Hữu Công
Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội
Độc giả đặt câu hỏi về sản phụ khoa tại đây để bác sĩ giải đáp |