Theo GS.TS.BS Ngô Quý Châu, Giám đốc chuyên môn, Cố vấn khoa Nội hô hấp, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội, xơ phổi là tình trạng các mô trong phổi bị tổn thương, dày lên, xơ cứng, mất chức năng đàn hồi và tạo thành những mô sẹo ở phổi. Những mô sẹo ở phổi cản trở quá trình đổi khí ở phổi, khiến người bệnh khó thở và gặp các biến chứng nguy hiểm khác.
Bệnh xơ phổi được chia thành 3 dạng. Xơ phổi thứ phát xuất hiện sau khi có tổn thương phổi như lao phổi, viêm phổi, nhồi máu phổi. Xơ phổi khu trú xảy ra khi hít phải các chất gây kích thích như bụi than, silica. Xơ phổi vô căn gồm bệnh phổi mô kẽ lan tỏa và bệnh viêm phế nang dị ứng ngoại lai, hay còn gọi là bệnh viêm phổi tăng cảm.
Quá trình xơ phổi và mức độ nặng của các triệu chứng khác nhau ở mỗi bệnh nhân. Giáo sư Châu cho biết, một số bệnh nhân tiến triển bệnh rất nhanh với các triệu chứng nghiêm trọng. Một số khác có triệu chứng nhẹ hơn, tiến triển chậm hơn trong vài tháng hoặc vài năm. Vì vậy, người bệnh cần chú ý khi có các triệu chứng như: khó thở, đặc biệt là trong hoặc sau khi người bệnh hoạt động thể chất; ho khan, ho kéo dài, ho khò khè, có thể ho ra máu; mệt mỏi; gầy sút cân không rõ lý do; đau cơ, khớp; đau tức ngực; phì đại đầu ngón tay, ngón chân (ngón tay dùi trống).
Nguyên nhân gây bệnh
Theo phân tích của giáo sư Châu, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tổn thương phổi, gây xơ hóa phổi.
Môi trường lao động bị ô nhiễm
Việc tiếp xúc với các chất độc hại, chất gây ô nhiễm như bụi silic, sợi amiăng... trong thời gian dài có thể làm tổn thương phổi. Bên cạnh đó, quá trình phơi nhiễm kinh niên đối với một số chất hữu cơ kể cả bụi ngũ cốc, mía đường, phân động vật... cũng có thể gây xơ phổi.
Ảnh hưởng của bức xạ
Thống kê cho thấy có một tỷ lệ nhỏ người bệnh xơ phổi từng trải qua điều trị xạ trị trong điều trị ung thư vú hoặc ung thư phổi, có thể biểu hiện xơ phổi sau vài tháng hoặc vài năm tính từ lúc bắt đầu được xạ trị. Các tổn thương và mức độ ảnh hưởng của quá trình trị liệu phụ thuộc vào diện tích phổi tiếp xúc với bức xạ, tổng số lần bức xạ, hóa trị liệu được sử dụng, các bệnh lý phổi từ trước...
Thuốc
Một số loại thuốc có thể gây xơ phổi gồm: các thuốc hóa trị như methotrexate hoặc cyclophosphamide; một số thuốc dùng để điều trị rối loạn nhịp tim như amiodarone (cordarone, nexterone); một số thuốc kháng sinh nitrofurantoin như macrobid, macrodantin hoặc ethambutol; một số thuốc chống viêm như rituximab, sulfasalazine.
Người bệnh mắc các bệnh lý liên quan
Những bệnh nhiễm trùng phổi nghiêm trọng như bệnh lao, viêm phổi có thể gây tổn thương phổi vĩnh viễn. Một số bệnh lý hệ thống như viêm khớp dạng thấp, bệnh lupus ban đỏ, hội chứng sjogren và sarcoidosis, ... ảnh hưởng đến các mô trong cơ thể, trong đó có phổi.
Bên cạnh đó, một số trường hợp xơ hóa phổi tự phát, không rõ nguyên nhân. Các nghiên cứu cho thấy, mặc dù chưa xác định chính xác nguyên nhân gây xơ hóa phổi tự phát, vẫn có một số yếu tố nguy cơ gây bệnh. Trong đó, người thường xuyên hút thuốc lá có nguy cơ phát triển chứng xơ hóa phổi tự phát nhiều hơn những người chưa bao giờ hút thuốc. Một số nghiên cứu phát hiện chứng xơ hóa phổi do một số loại virus gây ra như herpes, epstein-barr, virus gây bệnh bạch cầu đơn nhân... Một số trường hợp hiếm gặp xảy ra ở những gia đình có tiền sử mắc bệnh xơ phổi.
Biến chứng của bệnh
Giáo sư Châu nhận định, bệnh xơ phổi tiến triển qua từng giai đoạn, điều đáng lo ngại là các dấu hiệu bệnh có thể kiểm soát được và thuyên giảm, nhưng không thể khôi phục được các tổn thương phổi. Bệnh xơ phổi gây khó thở cùng một số biến chứng nguy hiểm cho người bệnh.
Giảm mức oxy trong máu xuống thấp: Phổi xơ hóa làm giảm lượng oxy nạp thêm vào máu, nguy cơ thiếu oxy trong máu gây phá vỡ hoạt động cơ thể, thậm chí có thể đe dọa tính mạng người bệnh.
Tăng áp lực động mạch phổi: Khi các động mạch và mao mạch nhỏ bị co thắt sẽ dẫn đến sức kháng mạch máu trong phổi tăng, làm tăng áp suất trong động mạch phổi. Đây là hiện tượng đặc biệt nghiêm trọng, có thể gây tử vong cho người bệnh ngay sau đó.
Suy tim phải: Tâm thất phải phải hoạt động mạnh hơn, sức bơm mạnh hơn bình thường để di chuyển máu qua động mạch phổi bị chặn có thể dẫn đến suy tim phải.
Suy hô hấp: Hầu hết trường hợp này xảy ra ở giai đoạn cuối của bệnh phổi mãn tính, khi oxy trong máu giảm thấp đến mức báo động nguy hiểm, có thể dẫn đến rối loạn nhịp tim, gây rối loạn ý thức, hôn mê.
Phương pháp điều trị
Giáo sư Châu cho biết, hiện chưa có phác đồ điều trị triệt để bệnh xơ phổi. Những phương pháp điều trị hiện tại chủ yếu giảm thiểu, cải thiện các triệu chứng bệnh, làm chậm quá trình phát triển bệnh và cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Điều trị bằng thuốc
Một số người bệnh được chỉ định dùng thuốc corticosteroid và một số thuốc ức chế miễn dịch khác. Một số thuốc mới là những thuốc chống xơ như pirfenidone và nintedanib có thể giúp làm chậm tiến triển của bệnh xơ phổi. Nitedanib có thể có tác dụng phụ như buồn nôn, tiêu chảy; tác dụng phụ của pirfenidone bao gồm ban đỏ, nôn và tiêu chảy. Các thuốc ức chế bài tiết acid có thể được sử dụng để điều trị trào ngược dạ dày thực quản - một rối loạn tiêu hóa thường xảy ra ở một số bệnh lý xơ phổi.
Điều trị nâng cao chất lượng cuộc sống người bệnh
Liệu pháp oxy kéo dài: Việc thở oxy không thể ngăn các tổn thương phổi nhưng hữu ích cho hơi thở, cải thiện vận động dễ dàng hơn, phòng và giảm các biến chứng do oxy máu thấp, cải thiện giấc ngủ và tinh thần người bệnh. Bên cạnh đó, liệu pháp oxy còn giúp giảm áp lực ở tim bên phải, do đó người bệnh có thể được chỉ định sử dụng liệu pháp này tùy theo mức độ bệnh và tình trạng sức khỏe.
Khi người bệnh bị tăng áp lực động mạch phổi nhiều có chỉ định dùng các thuốc làm giảm áp lực động mạch phổi kết hợp với thuốc lợi tiểu, giảm đông và các biện pháp điều trị khác.
Phục hồi chức năng phổi: Phục hồi chức năng hô hấp có thể giúp người bệnh kiểm soát các triệu chứng và cải thiện hoạt động hàng ngày. Chương trình phục hồi chức năng hô hấp tập trung vào các bài tập để cải thiện sức bền, kỹ thuật thở giúp hô hấp hiệu quả, tư vấn dinh dưỡng, giáo dục sức khỏe, tư vấn và hỗ trợ tâm lý.
Ghép phổi
Ghép phổi là lựa chọn cuối cùng đối với những người trẻ tuổi bị xơ hóa phổi nghiêm trọng, bệnh không thể cải thiện sau khi áp dụng các phương pháp điều trị khác. Ghép phổi có thể giúp người bệnh cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian sống. Để thực hiện ghép phổi, người bệnh phải bỏ thuốc lá, đủ sức khỏe để trải qua quá trình phẫu thuật và điều trị sau phẫu thuật... Tuy nhiên, đây cũng là phương pháp điều trị khá phức tạp, tốn chi phí và tiềm ẩn nhiều nguy cơ như nhiễm trùng và thải ghép. Người bệnh và gia đình cần tham khảo và xem xét ý kiến của bác sĩ về kết quả điều trị trước khi thực hiện phẫu thuật này.
Giáo sư Ngô Quý Châu khuyến cáo, để phòng tránh xơ hóa phổi và các biến chứng nguy hiểm, người bệnh cần có chế độ ăn uống khoa học, lành mạnh; không hút thuốc lá, hạn chế tiếp xúc với các khói bụi độc hại; thường xuyên tập luyện thể dục thể thao, nâng cao sức khỏe. Ngoài ra, thực hiện tiêm ngừa vaccine đầy đủ để phòng ngừa các bệnh lý liên quan đến phổi và các bệnh lý khác. Tái khám định kỳ theo chỉ định của bác sĩ để phát hiện sớm, điều trị kịp thời.
Thúy Nguyễn