Ung thư vú là bệnh lý ác tính với các tế bào ung thư hình thành từ trong mô tuyến vú và phát triển lan rộng ra toàn bộ vú. Sau đó, khối u sẽ di căn sang các bộ phận khác trên cơ thể nếu không được điều trị kịp thời.
TS.BS Vũ Hữu Khiêm, Trưởng khoa Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội, loại ung thư vú phổ biến nhất ở nam giới là ung thư biểu mô ống xâm lấn, chiếm khoảng 90% tổng số ung thư vú ở nam giới. Các loại khác có liên quan là u tủy, u nhú và tiểu thùy. Ung thư biểu mô ống tại chỗ thường khó phát hiện được nên dẫn đến chẩn đoán chậm trễ và tiên lượng sống kém. Ở Việt Nam mặc dù chưa có số liệu thống kê cụ thể, nhưng ung thư vú có thể xảy ra ở bất kỳ nam giới nào, nhất là trên những người có các yếu tố nguy cơ. Tiên lượng sống thêm sau 5 năm mắc ung thư vú ở nam giới cũng tương tự như ở phụ nữ.
Triệu chứng
Bác sĩ Khiêm lưu ý các dấu hiệu bất thường ở vú cần theo dõi ung thư vú ở nam giới bao gồm khối u hoặc sưng, thường không đau; da vú bị lõm hoặc nhăn nheo; núm vú co lại (quay vào trong); tấy đỏ hoặc đóng vảy núm vú hoặc da vú; tiết dịch từ núm vú. Đôi khi, ung thư vú có thể lan đến các hạch bạch huyết dưới cánh tay hoặc xung quanh xương đòn và tạo thành khối u hoặc sưng ở đó. Điều này xảy ra ngay cả trước khi chưa sờ thấy khối u ban đầu ở vú.
Theo bác sĩ Khiêm, những thay đổi này không phải lúc nào cũng do ung thư gây ra, nhưng nếu nhận thấy bất kỳ thay đổi nào ở vú, bạn nên đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Đôi khi dấu hiệu ung thư vú ở nam trong giai đoạn sớm có thể không bộc lộ. Do đó, thăm khám sức khỏe định kỳ hoặc chủ động tầm soát ung thư vú rất quan trọng ở người có yếu tố nguy cơ giúp phát hiện bệnh sớm, tăng tỷ lệ sống sau 5 năm.
Yếu tố nguy cơ
Đến nay, nguyên nhân của hầu hết các bệnh ung thư vú ở nam giới vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, theo bác sĩ Khiêm, một số yếu tố nguy cơ có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư vú ở nam giới.

Nam giới siêu âm tầm soát ung thư vú tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh. Ảnh: Bệnh viện cung cấp
Mức độ hormone
Các tế bào vú bình thường phát triển và phân chia để đáp ứng với các kích thích nội tiết nữ như estrogen. Càng nhiều tế bào phân chia, càng có nhiều cơ hội mắc sai lầm khi sao chép ADN. Những thay đổi ADN này cuối cùng có thể dẫn đến ung thư. Các yếu tố làm mất cân bằng nồng độ nội tiết tố nữ và nam trong cơ thể có thể ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú.
Đột biến gene
Có 2 loại đột biến ADN gây ung thư vú ở nam giới bao gồm: đột biến gene mắc phải và đột biến gene di truyền. Một số đột biến mắc phải của gene sinh ung thư và/hoặc gene ức chế khối u cũng có thể là kết quả của các hóa chất gây ung thư trong môi trường hoặc trong chế độ ăn uống. Mặc dù vậy, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng minh được điều này.
Một số bệnh ung thư vú có liên quan đến đột biến di truyền của gene ức chế khối u BRCA1 hoặc BRCA2. Nam giới có đột biến di truyền ở gene BRCA1 và BRCA2 có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn và có thể mắc một số bệnh ung thư khác như ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tuyến tụy. Ngoài ra còn có các hội chứng ung thư di truyền khác có thể liên quan đến ung thư vú ở nam giới.
Bác sĩ Khiêm khuyên, nếu được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, nam giới nên làm xét nghiệm di truyền vì có thể có nguy cơ mắc các bệnh ung thư khác, chẳng hạn như ung thư tuyến tiền liệt và tuyến tụy.
Phương pháp chẩn đoán
Đầu tiên, bác sĩ sẽ khai thác bệnh sử của cá nhân và gia đình, kiểm tra mô vú bằng cách khám vú và nách để tìm các hạch và khối u, đồng thời kiểm tra sức khỏe tổng thể. Bên cạnh đó, bác sĩ có thể chỉ định thực hiện một số kiểm tra cận lâm sàng bao gồm:
Chụp X-quang tuyến vú nhằm xác định những thay đổi trong mô vú. Kết quả X-quang có thể gợi ý cho bác sĩ có cần phải thực hiện sinh thiết bổ sung hay không.
Siêu âm vú nhằm khảo sát những thay đổi ở vú được phát hiện trong quá trình chụp X-quang tuyến vú hoặc khám sức khỏe. Chẩn đoán này có thể phân biệt được sự khác biệt giữa u nang chứa đầy chất lỏng (không có khả năng là ung thư) và khối rắn (có thể cần xét nghiệm thêm để chắc chắn chúng có phải ung thư hay không). Với những người có khối u ở vú, siêu âm cũng nhằm kiểm tra có hạch bạch huyết ở vùng nách hay không. Nếu có, siêu âm có thể được sử dụng để hướng dẫn kim lấy mẫu (sinh thiết), giúp tìm tế bào ung thư ở đó và trong mô vú.
Sinh thiết vú thường được chỉ định khi các chẩn đoán trước đó gợi ý có dấu hiệu ung thư vú. Có nhiều phương pháp sinh thiết vú khác nhau như: sinh thiết chọc hút bằng kim nhỏ (FNA), sinh thiết kim lõi (CNB), sinh thiết kim lõi lập thể và sinh thiết lõi có hỗ trợ chân không. Việc sử dụng loại sinh thiết nào sẽ tùy thuộc vào tình huống cụ thể của mỗi người bệnh.
Sinh thiết phẫu thuật ít khi cần phải sử dụng trong chẩn đoán ung thư vú. Bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ toàn bộ khối u hoặc khu vực bất thường, cũng như phần rìa xung quanh của mô vú bình thường để sinh thiết mô, tìm dấu hiệu của ung thư.
Sinh thiết hạch bạch huyết có thể được thực hiện cùng lúc với sinh thiết khối u vú hoặc trong khi phẫu thuật cắt bỏ khối u vú.
Phòng bệnh
Theo bác sĩ Khiêm, thực hiện chế độ ăn uống, sinh hoạt lành mạnh; tránh rượu bia, thuốc lá, thực phẩm chế biến sẵn; kiểm soát căng thẳng stress; tránh tiếp xúc với hóa chất độc hại hoặc bức xạ; tập thể dục hàng ngày... giúp bảo vệ mỗi người khỏi nguy cơ ung thư vú và các bệnh lý nói chung.
Các biểu hiện ung thư vú ở nam giới trong giai đoạn đầu thường mơ hồ không dễ phát hiện. Khi các triệu chứng bộc lộ rõ ràng bệnh đã ở giai đoạn xâm lấn, lúc này, việc điều trị sẽ khó khăn, tốn kém, hiệu quả hạn chế và tiên lượng sống giảm dần theo giai đoạn bệnh. Do đó, bác sĩ Khiêm khuyến nghị, người có yếu tố nguy cơ ung thư vú nên khám sức khỏe định kỳ mỗi năm từ 1-2 lần; tầm soát ung thư vú ít nhất một lần giúp phòng ngừa hoặc phát hiện bệnh sớm để điều trị kịp thời, tăng tỷ lệ sống thêm sau 5 năm.
Nguyên Phương