Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, ung thư vú viêm ít gặp và nguy hiểm. Nam và nữ giới đều có thể mắc loại ung thư này. Bệnh có có xu hướng xuất hiện nhiều hơn ở phụ nữ trẻ, trong khi đàn ông mắc bệnh này thường có độ tuổi lớn hơn nữ giới. Độ tuổi trung bình của phụ nữ chẩn đoán mắc bệnh là 40-50. Người thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ ung thư vú viêm cao hơn người có cân nặng trung bình.
Ung thư vú viêm phát triển nhanh, có thể chặn bạch huyết và mạch máu ở ngực. Điều này khiến cho các triệu chứng phát triển nhanh chóng, đôi khi trong vài tuần hoặc vài tháng. Ung thư vú viêm có thể không chứa khối u rắn mà phát triển thành từng mảng và có thể lây lan chủ yếu qua hệ thống bạch huyết. Bệnh thường có các triệu chứng sau:
Đỏ hoặc phát ban trên da: Có những vùng trên ngực màu hồng, đỏ hoặc hơi xanh (như vết bầm tím). Vết đỏ này thường lan rộng và có thể bao phủ 1/3 ngực hoặc nhiều hơn, đôi khi gây ngứa.
Kích thước: Ngực tăng kích thước đột ngột, có thể tăng nhanh trong trong vài ngày. Nặng ngực, một bên nhiều hơn bên kia.
Hình dạng: Da trên ngực có vết lõm (rỗ), đường gờ, mấp mô, sần giống như vỏ cam. Nhũ hoa tụt vào trong hoặc có thay đổi bất thường khác. Ngực sưng (phù nề) do tích tụ chất lỏng.
Cảm giác ở ngực: Cảm giác cứng hoặc nóng rát ở ngực, cũng có thể cảm thấy một bên ngực ấm hơn bên kia.
Đau: Xuất hiện tình trạng đau ngực không liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt.
Hạch bạch huyết: Sưng hạch bạch huyết dưới cánh tay hoặc phía trên xương đòn.
Các triệu chứng ung thư vú viêm có thể tương tự như các tình trạng khác như bệnh chàm, phát ban lành tính, viêm vú, nhất là giai đoạn ban đầu. Đi khám nếu các triệu chứng xuất hiện nhanh chóng, ảnh hưởng đến 1/3 ngực trở lên và kéo dài (có thể dưới 3 tháng), kể cả có hoặc không có khối u.
Các cách thức tầm soát và nhằm xác định ung thư vú viêm thường là chụp X-quang tuyến vú, siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI), quét xương, sinh thiết. Bệnh có thể không hiển thị trên ảnh chụp X-quang tuyến vú. Nhận biết các triệu chứng sớm tăng hiệu quả điều trị, giảm khả năng tái phát.
Ung thư vú dạng viêm rất ác tính nên thường được điều trị bằng kết hợp nhiều phương pháp để giảm nguy cơ tái phát. Chúng gồm hóa trị trước phẫu thuật, phẫu thuật, xạ trị, liệu pháp nhắm mục tiêu, liệu pháp miễn dịch, liệu pháp nội tiết tố.
Bệnh này có nguy cơ tái phát cao hơn một số dạng ung thư vú khác vì nó ác tính và tiến triển nhanh hơn, có thể xảy ra sau vài tháng hoặc vài năm đầu sau điều trị. Nếu ung thư tái phát ở vùng ngực đã được tái tạo hoặc gần vết sẹo sau phẫu thuật cắt bỏ ngực được coi là tái phát cục bộ. Tái phát khu vực khi ung thư được tìm thấy ở các hạch bạch huyết hoặc gần xương đòn ở cùng phía với ngực bị ảnh hưởng trước đó. Tái phát ở xa (di căn) nếu tế bào ung thư xuất hiện ở những nơi khác trong cơ thể. Các vị trí tái phát xa phổ biến nhất là các hạch bạch huyết, xương, gan và phổi.
Người bệnh nên tái khám 3-6 tháng một lần sau khi được chẩn đoán trong ba năm đầu, sau đó tăng dần thành 1-2 lần mỗi năm. Bệnh nhân ung thư vú viêm cũng nên tự kiểm tra ngực hàng tháng và lưu ý các triệu chứng tái phát để điều trị kịp thời.
Mai Cat (Theo Very Well Health)
Độc giả đặt câu hỏi về bệnh ung thư tại đây để bác sĩ giải đáp |