Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ung này gồm độ tuổi, cân nặng, giai đoạn và loại ung thư, phương pháp điều trị, hút thuốc.
Tuổi
Độ tuổi trung bình chẩn đoán ung thư đại trực tràng là 68 ở nam và 72 ở nữ. Năm 2021, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Bang Ohio (Mỹ) và một số trường khác đã phân tích khả năng sống sót của gần 770.000 bệnh nhân ung thư đại trực tràng khởi phát sớm. Kết quả cho thấy người khởi phát bệnh ở độ tuổi dưới 50 có tỷ lệ sống cao hơn người khởi phát bệnh từ 50 tuổi trở lên.
Theo nghiên cứu năm 2015 của Hà Lan trên 620 bệnh nhân ung thư đại trực tràng, tỷ lệ sống chung sau 5 năm ở người trên 63 tuổi là 58,8%, người trên 79 tuổi là 40,8%.
Cân nặng
Năm 2005-2012, các nhà nghiên cứu của Đại học Western Australia đã phân tích các yếu tố lối sống liên quan đến khả năng sống sót sau chẩn đoán trên gần 880 bệnh nhân ung thư đại trực tràng. Kết quả cho thấy phụ nữ mắc ung thư này bị béo phì hoặc thừa cân có nguy cơ tử vong gần gấp đôi phụ nữ mắc bệnh có cân nặng bình thường.
Theo các nhà nghiên cứu, chỉ số khối cơ thể (BMI) cao làm tăng nguy cơ kháng insulin, viêm mạn tính và suy giảm chức năng hormone. Mỗi yếu tố này có liên quan đến sự khởi phát và tiến triển của bệnh. Bệnh nhân tập thể dục thường xuyên có tỷ lệ tử vong sau điều trị giảm 40-70% so với người bệnh không tập.
Giai đoạn
Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư đại trực tràng dựa vào mức độ lây lan của tế bào khối u. Giai đoạn đầu (ung thư khu trú, tại chỗ) là 90,9%, giai đoạn hai và ba (ung thư khu vực) là 73,4%, khi di căn (giai đoạn 4), tỷ lệ này giảm xuống 15,6%. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm cho tất cả giai đoạn là 65%.
Loại ung thư
Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, ung thư biểu mô tuyến chiếm khoảng 95% các trường hợp ung thư đại trực tràng. Bệnh gồm ung thư biểu mô tuyến nhầy và biểu mô tế bào vòng signet. Loại biểu mô tuyến nhầy làm giảm khoảng 20% thời gian sống tổng thể của bệnh nhân.
Ung thư biểu mô tế bào vòng signet chiếm khoảng 1% trong ung thư đại trực tràng nhưng rất ác tính. Người mắc loại này có tỷ lệ sống tổng thể sau 5 năm khoảng 36,3%.
Sarcomas là khối u phát triển trong các mô liên kết ở đại tràng. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm chung khi mắc khối u này là 46%. Leiomyosarcoma là ung thư ở cơ trơn đại tràng và trực tràng. Chúng chiếm ít hơn 0,1% trong số các bệnh nhân ung thư đại trực tràng, tỷ lệ sống sau 5 năm chung là 43,8%.
Ung thư hạch đại trực tràng nguyên phát chỉ chiếm 0,5% trong ung thư đại trực tràng. Tỷ lệ sống sau 5 năm chung của loại này khoảng 56,4%.
Phương pháp điều trị
Nghiên cứu năm 2015 của Đại học Khoa học Y tế Shahid Beheshti (Iran), với khoảng 100 bệnh nhân ung thư đại trực tràng chỉ ra, cắt bỏ khối u nguyên phát tăng tỷ lệ sống sau 5 năm lên 73,8%, giảm nguy cơ tái phát chỉ còn 6,4%.
Bệnh nhân ở giai đoạn 4 không thể phẫu thuật, thường điều trị bằng các phương pháp phù hợp. Nghiên cứu năm 2019 của Đại học Bách khoa Hồng Kông trên 82 bệnh nhân cho thấy họ có tỷ lệ sống sau 4 năm khoảng 43% sau khi điều trị bằng liệu pháp xạ trị lập thể kết hợp hóa trị.
Hút thuốc
Khói thuốc lá gây viêm mạn tính và tổn thương oxy hóa DNA. Các yếu tố này góp phần vào sự khởi phát và làm tăng khả năng tái phát ung thư đại trực tràng.
Năm 2015, Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Đức đã thực hiện một đánh giá trên hơn 62.000 bệnh nhân mắc loại ung thư này về mối liên quan giữa hút thuốc và khả năng sống sót. Theo đó, hút thuốc sau chẩn đoán mắc bệnh làm tăng nguy cơ tử vong trong 60 ngày lên 49% hoặc hơn so với không bao giờ hút thuốc. Người cai thuốc lá cải thiện 78% thời gian sống so với người không bỏ thuốc lá.
Mai Cat (Theo Very Well Health)
Độc giả đặt câu hỏi bệnh ung thư tại đây để bác sĩ giải đáp |