Viêm khớp dạng thấp ước tính ảnh hưởng đến khoảng 0,24-1% dân số toàn cầu và số bệnh nhân nữ gấp đôi so với nam giới.
Viêm khớp dạng thấp còn gọi là viêm đa khớp dạng thấp, là một bệnh lý mạn tính do rối loạn tự miễn trong cơ thể gây nên, xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công nhầm vào chính các mô trong cơ thể.
Viêm khớp dạng thấp ảnh hưởng đến niêm mạc khớp của người bệnh, gây sưng đau cuối cùng có thể dẫn đến xói mòn xương, và biến dạng khớp... ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt hàng ngày như viết, mở chai lọ, mặc quần áo và mang vác đồ vật. Viêm khớp mắt cá, khớp gối hoặc khớp bàn chân có thể gây khó khăn cho bênh nhân khi đi đứng và cúi người.
Độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh, nhưng nguy cơ cao nhất 30-50 tuổi.
Nguyên nhân
Viêm khớp dạng thấp xảy ra khi hệ thống miễn dịch bị tấn công synovium - lớp màng của màng bao quanh khớp dẫn đến viêm kết quả làm dày synovium, cuối cùng có thể phá hủy sụn và xương trong khớp. Ngoài ra các gân và dây chằng giữ các khớp với nhau cũng bị giãn và suy yếu khiến cho khớp bị biến dạng và mất tính liên kết.
Hiện nay, khoa học vẫn chưa biết được nguyên nhân viêm khớp dạng thấp là gì dẫn đến tình trạng rối loạn miễn dịch này. Tuy nhiên, yếu tố di truyền có thể có liên quan vì một số gen mặc dù không trực tiếp gây ra bệnh nhưng có thể khiến bạn nhạy cảm hơn với các yếu tố môi trường, chẳng hạn như nhiễm một số vi khuẩn hoặc virus nhất định và từ đó có thể làm khởi phát bệnh.
Triệu chứng
Triệu chứng phổ biến của viêm khớp dạng thấp phần lớn là đau khớp và xơ cứng khớp, nặng nhất vào buổi sáng sau khi thức dậy hoặc sau khi ngồi bất động trong khoảng thời gian dài. Tình trạng xơ cứng khớp thường đỡ hơn sau khi cử động nhiều lần. Triệu chứng này thường xuất hiện đột ngột và nhanh hết.
Những triệu chứng khác bao gồm bỏng hoặc ngứa mắt, mệt mỏi, nổi nhọt ở chân, chán ăn, ngứa ran và tê, nhịp thở ngắn, nốt sần da, yếu và sốt cao. Khớp có thể bị đỏ, sưng tấy, nóng, mềm và biến dạng khớp.
Viêm khớp dạng thấp bao gồm 4 giai đoạn sau:
- Giai đoạn I: Viêm màng trên khớp dẫn đến sưng khớp và đau khớp. Các tế bào miễn dịch di chuyển đến vùng viêm dẫn đến số lượng tế bào tăng cao trong dịch khớp.
- Giai đoạn II: Ở mức độ vừa phải, trong giai đoạn II này có sự gia tăng và làn truyền của viêm trong mô. Mô xương bắt đầu phát triển ảnh hưởng đến không gian khoang khớp và trên sụn, dần dần phá hủy sụn khớp và khớp bắt đầu thu hẹp do mất sụn.Trong giai đoạn này, thường không có dị dạng khớp,
- Giai đoạn III: Đây là giai đoạn nặng. Sự mất đi sụn khớp trong các khớp bị tổn thương làm lộ xương dưới sụn. Bệnh nhân thường đau khớp, sưng tấy, hạn chế chuyển động, cứng khớp vào buổi sáng, suy nhược cơ thể, teo cơ, hình thành các nốt sẩn dị dạng.
- Giai đoạn IV: Giai đoạn IV được gọi là giai đoạn cuối của bệnh viêm khớp dạng thấp. Ở giai đoạn này, quá trình viêm giảm đi và hình thành các mô xơ và xương chùng (xương kết hợp) dẫn đến việc ngừng chức năng khớp.
Những người dễ bị viêm khớp dạng thấp:
- Phụ nữ có nhiều khả năng mắc bệnh viêm khớp dạng thấp hơn nam giới.
- Viêm khớp dạng thấp có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng nó thường bắt đầu ở tuổi trung niên.
- Trong gia đình có người bị viêm khớp dạng thấp thì có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
- Người hút thuốc lá có nguy cơ phát triển viêm khớp dạng thấp cao hơn so với người không hút thuốc lá.
- Một số phơi nhiễm như amiăng hoặc silica cũng có thể làm tăng nguy cơ phát triển viêm khớp dạng thấp. Các nhân viên cấp cứu tiếp xúc với bụi từ sự sụp đổ của Trung tâm Thương mại Thế giới có nguy cơ mắc các bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp.
- Người béo phì, đặc biệt phụ nữ từ 55 tuổi trở xuống, người thừa cân dường như có nguy cơ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp cao hơn bình thường.
Chẩn đoán
Để chẩn đoán, bác sĩ kiểm tra cơ xương khớp tổng quát, như vùng khớp đau nhức, các khớp bị đau có đối xứng nhau không, có xuất hiện bướu và nốt dưới da không, có hiện tượng cứng khớp (đặc biệt là vào buổi sáng) không...
Tiếp theo, bác sĩ có thể chỉ định làm một số xét nghiệm như:
- Xét nghiệm máu nhằm xác định số lượng hồng cầu. Những người bị bệnh tự miễn viêm khớp dạng thấp có thể có số lượng tế bào hồng cầu thấp.
- Xét nghiệm Protein phản ứng C (C-reactive protein - CRP).
- Xét nghiệm kháng thể kháng nhân dương tính (ANA).
- Xét nghiệm kháng thể citrulline theo chu kỳ (anti-CCP).
- Tốc độ lắng của tế bào máu (ESR): Máu đông lại nhanh ở đáy ống nghiệm là dấu hiệu của RA.
- Xét nghiệm RF.
Điều trị
Bệnh viêm khớp dạng thấp diễn biến phức tạp gây hậu quả nặng nề do đó cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên điều trị tích cực ngay từ đầu bằng các biện pháp điều trị hiệu quả có thể làm ngừng hay làm chậm tiến triển của bệnh, hạn chế tàn phế và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh. Bên cạnh đó, các loại thuốc mới đem lại hiệu quả cao cho người bệnh.
Ngoài sử dụng thuốc, bệnh cũng có một số phương pháp điều trị bao gồm cả điều trị nội khoa và phẫu thuật.
Để điều trị viêm khớp dạng thấp hiệu quả người bệnh cần đi khám, được thực hiện các phương pháp cận lâm sàng xác định bệnh và mức độ để có những tư vấn điều trị, phác đồ điều trị hiệu quả.
Phòng ngừa
Chưa có biện pháp nào có thể phòng viêm khớp dạng thấp, nếu gia đình có người bị viêm khớp dạng thấp cần kiểm tra sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Viêm khớp dạng thấp có thể khó chẩn đoán ở giai đoạn đầu vì các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu giống với các bệnh khác. Không có xét nghiệm máu hoặc phát hiện vật lý để xác nhận chẩn đoán. Triệu chứng lâm sàng nghèo nàn có thể thấy là sưng khớp, biến dạng khớp ở giai đoạn muộn.
Chăm sóc
Người bệnh viêm khớp dạng thấp cần chế độ chăm sóc đặc biệt để cải thiện triệu chứng và phòng ngừa biến chứng.
Những nguyên tắc cần lưu ý khi chăm sóc người bệnh:
- Hiểu tình trạng bệnh: Cần biết người bệnh bị viêm khớp gối, khớp cổ tay hay khớp háng, từ đó hỗ trợ họ trong sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ, nếu cử động bàn tay và chi trên bị ảnh hưởng, người bệnh cần hỗ trợ trong lúc ăn uống, vệ sinh cá nhân, thay quần áo...; nếu bệnh ảnh hưởng khớp gối, người bệnh cần trợ giúp khi đi lại hay lên xuống cầu thang...
- Đồng thời, cần động viên người bệnh cố gắng tự vận động như cầm đũa gắp thức ăn, tự đi bộ vào nhà vệ sinh hay lên cầu thang không cần dìu...
- Giúp quản lý thuốc: Hãy hỗ trợ nếu người bệnh gặp khó khăn trong việc ghi nhớ loại thuốc cần uống cũng như thời gian, liều lượng uống.
- Khuyến khích và giúp đỡ người bệnh tập thể dục: Tập thể dục được chứng minh rất có lợi cho người bị viêm khớp. Tuy nhiên, nhiều người thường bỏ qua, thậm chí là sợ hãi việc tập luyện. Lúc này, nên khuyến khích và hỗ trợ người bệnh tập thể dục đều đặn, đúng cách. Nếu phải phẫu thuật thay khớp, người bệnh sẽ cần trợ giúp trong quá trình thực hiện các bài tập vật lý trị liệu sau mổ.
Các bài viết của VnExpress có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.