Theo TS.BS Đỗ Hữu Thiều Chương, Phó giám đốc Trung tâm Sơ sinh Bệnh viện đa khoa Tâm Anh TP HCM, thông thường, một thai kỳ bình thường sẽ diễn ra trong 9 tháng 7 ngày (tương đương 40 tuần). Sinh non là khi trẻ được sinh ra ở tuổi thai từ 22 tuần đến trước 37 tuần.
Theo số liệu từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ước tính trên toàn cầu có khoảng 15 triệu trẻ sinh non ra đời, chiếm tỷ lệ 1/10 trẻ sơ sinh. Sinh non được xem là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi. Khoảng 1 triệu trẻ sinh non tử vong do các biến chứng. Nhiều trẻ sống sót nhưng phải đối mặt với tình trạng khuyết tật suốt đời, bao gồm khuyết tật thần kinh, tim mạch, thị giác, thính giác.
Riêng tại Việt Nam, theo các tài liệu báo cáo chung, tình trạng sinh non ngày càng tăng. Trung bình cả nước, tỷ lệ sinh non khoảng 7%, mỗi năm có khoảng 100.000-110.000 trẻ sinh non ra đời. PGS.TS.BS Lưu Thị Hồng, Trưởng khoa sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội cho biết, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội tiếp nhận 100 trẻ mỗi tháng và khoảng 1.200 trẻ mỗi năm. Trong đó có đến 70% là trẻ sinh non tháng,khoảng 50% là trẻ sinh non dưới 30 tuần. Số trẻ sinh từ 25-26 tuần chiếm 10% trong tổng số 50% ca sinh non.
Trường hợp nuôi sống bé sinh non với tuần thai 24 tuần 6 ngày tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh được xem là kỳ tích trong y khoa Việt Nam. Đây là ca sinh non, sau sinh sức khỏe bé rất yếu: không thở, không khóc, không có phản xạ, trên da nhiều mảng bầm tím, nhịp tim chậm. Với sự phối hợp của khoa Sản và khoa Sơ sinh, các bác sĩ hồi sức tích cực sơ sinh đã túc trực trong phòng sinh, nhanh chóng chuyển bé về khoa Sơ sinh bằng thiết bị chuyên dụng, theo dõi sát sao bằng phác đồ chăm sóc đặc biệt, với những trang thiết bị hiện đại nhất. Tình trạng của trẻ dần chuyển biến tích cực, các y bác sĩ thở phào khi vượt qua thời khắc khó khăn.
Phân loại mức độ sinh non
Mức độ sinh non thường được mô tả theo tuổi thai, thông thường sẽ chia ra 4 mức độ: Trẻ sinh cực non: em bé sinh trước 28 tuần tuổi thai. Trẻ sinh rất non: em bé sinh ra từ 28 - 31 tuần 6 ngày. Trẻ sinh non trung bình: em bé sinh ra từ 32 - 33 tuần 6 ngày. Trẻ sinh non muộn: em bé sinh ra từ 34 - 36 tuần 6 ngày.
Hầu hết trẻ non tháng mức độ vừa và nhẹ (xấp xỉ 80%) tuổi thai từ trên 32 - 37 tuần, cân nặng trên 1.500g - 2.500g. Những trẻ này vẫn có nguy cơ tử vong cao vì thiếu chăm sóc cơ bản như: giữ ấm, nuôi dưỡng sữa mẹ, vệ sinh phòng - chống nhiễm khuẩn. Ở những nước thu nhập thấp, khoảng 10 - 13% trẻ được sinh ra ở tuổi thai từ 28 - 32 tuần và hơn một nửa số trẻ này bị tử vong do không được chăm sóc tích cực.
Nguyên nhân sinh non
Có khoảng 50% trường hợp sinh non không xác định rõ lý do. Bên cạnh đó, còn một số nguyên nhân và yếu tố nguy cơ như:
Yếu tố xã hội
Thai phụ không được chăm sóc đầy đủ trước sinh, đời sống kinh tế thấp, kèm theo vấn đề về thể chất như suy dinh dưỡng, không tăng cân, thai phụ lao động nặng nhọc thời kỳ mang thai. Độ tuổi cũng tác động đến tỷ lệ sinh non, theo nghiên cứu mẹ dưới 20 tuổi hoặc trên 35 tuổi là yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh non.
Yếu tố từ phía mẹ
Một số yếu tố từ mẹ có thể dẫn để nguy cơ sinh non ở trẻ như mắc các bệnh lý như: nhiễm trùng đường tiết niệu khi mang thai, gặp chấn thương vùng bụng, phẫu thuật vùng bụng khi mang thai, công việc mang tính chất lao động nặng, môi trường nhiều chất độc hại hoặc nhiều căng thẳng.
Bên cạnh đó ở một số thai phụ có tiền sử mắc bệnh tim, thận, gan, hay gặp tai biến sản khoa như sản giật, tiền sản giật cũng có nguy cơ sinh non cao. Khảo sát cho thấy, có 5% trường hợp sinh non gặp ở các bà mẹ có tử cung dị dạng bẩm sinh, 100% trường hợp sản phụ bị hở eo cổ tử cung sẽ sinh non nếu không được can thiệp kịp thời. Sản phụ từng làm thủ thuật can thiệp ở cổ tử cung như khoét chóp cổ tử cung, bị viêm nhiễm âm đạo, viêm cổ tử cung, tiền sử đẻ non trước đó cũng làm tăng nguy cơ sinh non.
Do thai và phần phụ của thai
Theo TS.BS Đỗ Hữu Thiều Chương, có khoảng 10-20% trường hợp sinh non rơi vào trường hợp đa thai, 10% có rau tiền đạo, bên cạnh đó các nguy cơ như nhiễm trùng ối, vỡ ối sớm, đa ối hay rau bong non cũng gây sinh non. Để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sinh non, bác sĩ cần xem xét toàn tiền sử bệnh lý sản phụ khoa, xem xét những nguy cơ đến từ phía sản phụ, hoặc đến từ phía thai, phần phụ của thai và những nguyên nhân phối hợp.
Dấu hiệu và biến chứng có thể xảy ra khi sinh non
Tiến sĩ Đỗ Hữu Thiều Chương cho biết, trong giai đoạn mang thai, nếu thai phụ có bất kỳ triệu chứng nào sau đây, nên liên hệ với bác sĩ chuyên khoa để được hướng dẫn và xử trí nhanh nhất: đau lưng âm ỉ; em bé có dấu hiệu đẩy về phía dưới; sưng ở tay, chân hoặc mặt; buồn nôn, nôn mửa hoặc tiêu chảy; mờ mắt hoặc các rối loạn mắt khác; đau quặn bụng giống như đau bụng kinh; em bé cử động ít hoặc ngừng cử động; âm đạo tiết dịch hoặc máu bất thường.
Bởi vì trẻ sinh non được sinh ra trước khi sẵn sàng về thể chất để rời khỏi bụng mẹ nên trẻ có nguy cơ gặp các vấn đề về sức khỏe. Một số vấn đề ngắn hạn và dài hạn ảnh hưởng đến sức khỏe của em bé. Vì những lo lắng về sức khỏe này, trẻ sinh non được chăm sóc và hỗ trợ y tế thêm ngay sau khi sinh. Tùy thuộc vào thời điểm em bé ra đời, bác sĩ sơ sinh có thể xác định tình trạng của bé và đưa ra các phác đồ điều trị cần thiết. Một số vấn đề phổ biến đối với trẻ sinh non bao gồm: vấn đề về hô hấp; rối loạn thân nhiệt; vấn đề tim mạch bẩm sinh; các vấn đề trong đường tiêu hóa; vàng da sơ sinh; thiếu máu; nhiễm trùng sơ sinh...
Hầu hết trẻ sinh non sẽ phát triển bình thường, nhưng chúng có nguy cơ mắc các vấn đề về phát triển cao hơn vì vậy sẽ cần kiểm tra sức khỏe và sự phát triển thường xuyên tại bệnh viện hoặc với bác sĩ nhi khoa. Nếu bạn lo lắng về sự phát triển của con mình, hãy nói chuyện với bác sĩ.
Các vấn đề có thể xảy ra sau này ở trẻ sinh non bao gồm: chậm phát triển ngôn ngữ; các vấn đề về tăng trưởng và vận động; vấn đề về nha khoa; thị lực hoặc thính giác; khó khăn trong suy nghĩ và học tập; vấn đề về tâm lý.
Chẩn đoán và điều trị
Trong hầu hết các trường hợp, chuyển dạ sinh non bắt đầu bất ngờ và không rõ nguyên nhân. Giống như chuyển dạ thường, các dấu hiệu chuyển dạ sớm bao gồm: các cơn gò tử cung: 4 cơn gò tử cung trong 20 phút hay 8 cơn gò tử cung trong 60 phút; cổ tử cung mở hơn 2cm hoặc xoá mỏng hơn 80%; có sự tiến triển cổ tử cung được ghi nhận bởi một người khám qua nhiều lần; vỡ ối; thay đổi dịch tiết âm đạo (tăng đáng kể lượng dịch tiết ra hoặc chất lỏng bị rò rỉ hoặc chảy máu từ âm đạo); áp lực vùng chậu, cảm giác em bé đang dần tụt xuống; đau lưng nhẹ, âm ỉ; đau quặn bụng có hoặc không kèm theo tiêu chảy.
Nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào của chuyển dạ sinh non, hãy nhanh chóng liên hệ với bệnh viện có chuyên gia giỏi và đầy đủ trang thiết bị hồi sức trẻ sinh non để được cấp cứu đúng cách, phòng ngừa biến chứng cho trẻ.
Nếu có dấu hiệu sinh non, mẹ nên chọn bệnh viện có chuyên khoa chăm sóc đặc biệt cho trẻ sinh non (NICU). Nếu bệnh viện nơi em bé được sinh ra không có NICU, sản phụ và em bé trong bụng nên được chuyển đến bệnh viện khác để nhận hỗ trợ tốt nhất.
Khi chuyển dạ, sản phụ có thể được dùng thuốc để ngừng các cơn co trong một thời gian. Điều này cho phép sản phụ chuyển đến bệnh viện khác nếu cần thiết. Corticosteroid có thể được tiêm từ 12 đến 24 giờ trước khi sinh để giúp phổi của em bé hoạt động hiệu quả hơn. Trẻ sinh non có thể ra đời rất nhanh qua đường âm đạo. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, bác sĩ có thể quyết định sinh mổ là an toàn nhất. Vì vậy trẻ sinh non nên sinh thường nên sinh mổ tùy thuộc vào nhiều yếu tố.
Đối với trẻ sơ sinh, 60 phút sau sinh và 28 ngày đầu tiên của cuộc đời rất quan trọng đối với sự sống còn của trẻ. Với hơn 30 năm kinh nghiệm hồi sức và nuôi sống trẻ sinh non, Tiến sĩ, bác sĩ Đỗ Hữu Thiều Chương cho biết, ngay khi rời khỏi bụng mẹ, trẻ sinh non cần được ủ ấm với khăn bọc, đội nón, túi nhựa giữ nhiệt và chuyển ngay sang giường sưởi ấm đặt sát giường sinh. Tùy từng trường hợp, cần gắn ống thở CPAP không xâm lấn, giúp phổi bé không bị xẹp, hạn chế nhiễm trùng, không bị suy hô hấp. Các bác sĩ cũng làm một số xét nghiệm sàng lọc, đặc biệt là sàng lọc dị tật bẩm sinh, sàng lọc bệnh lý để loại trừ suy giáp bẩm sinh, tăng sản bẩm sinh, G6PD thấp, sàng lọc thính lực... Sàng lọc tim bẩm sinh bằng những phương pháp đơn giản như đo oxy qua da hoặc các biện pháp chuyên sâu nếu có bất thường hoặc nghi ngờ bất thường. Những trường hợp bị tim bẩm sinh mức độ nặng có thể can thiệp từ rất sớm, giảm tối đa nguy cơ tử vong, tăng cơ hội sống khỏe mạnh.
Quỳnh Châu