Viêm gan phát triển do nhiễm virus hoặc uống rượu nhưng nó cũng có thể là kết quả của chất độc, thuốc, tình trạng tự miễn dịch. Có năm loại chính là viêm gan A, B, C, D, E. Trong đó, viêm gan siêu vi B, C là những bệnh phổ biến nhất. Các loại virus gây ra các bệnh viêm gan này cũng có sự biệt nhưng một số người vẫn có sự nhầm lẫn. Dưới đây là một số lầm tưởng thường gặp về bệnh viêm gan nói chung và viêm gan C nói riêng theo giải đáp của Tiến sĩ Lauren Nephew, Đại học Y khoa Indiana (Mỹ), trên tờ Medical News Today.
Các loại viêm gan đều nghiêm trọng như nhau
Một số loại viêm gan có thể tự khỏi nhưng số khác có thể tiến triển thành bệnh mạn tính, có thể gây xơ gan, ung thư gan. Viêm gan A thường làm cho người bệnh cảm thấy rất khó chịu trong một thời gian ngắn, nhưng rất hiếm khi có bất kỳ loại biến chứng nghiêm trọng hoặc bệnh kéo dài. Bệnh viêm gan B có thể rất nghiêm trọng nếu lần nhiễm virus ban đầu của một người trở thành bệnh nhiễm trùng mạn tính.
Trong khi đó, viêm gan C thường không gây ra các triệu chứng lúc đầu, nhưng nhiều người bị nhiễm viêm gan C sẽ tiếp tục phát triển thành nhiễm trùng mạn tính, cuối cùng có thể dẫn đến ung thư gan, xơ gan và tử vong nếu không được điều trị. Do đó, tiêm phòng viêm gan A, B và tầm soát viêm gan C ngay cả khi khỏe mạnh rất quan trọng.
Viêm gan C hiếm gặp
Viêm gan B, C là những nguyên nhân phổ biến nhất gây xơ gan và ung thư gan. Chúng cũng là nguyên nhân gây ra nhiều ca tử vong nhất liên quan đến viêm gan virus. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hiện có 354 triệu người trên thế giới bị nhiễm viêm gan B, C hoặc cả hai.
Người bị viêm gan C không thể cho con bú
Virus viêm gan C không lây qua đường sữa mẹ. Tuy nhiên, những người mẹ có núm vú bị nứt hoặc chảy máu nên tạm thời ngừng cho con bú cho đến khi vết thương lành.
Có thể mắc bệnh viêm gan C khi hôn, nắm tay
Một số người cho rằng bệnh viêm gan có thể lây lan khi hôn, nắm tay. Virus viêm gan C lây lan khi ai đó tiếp xúc với máu từ người bệnh qua việc dùng chung dụng cụ tiêm chích ma túy, dụng cụ xăm hình không được khử trùng, sinh nở hoặc hiếm gặp hơn là quan hệ tình dục.
Không thể quan hệ tình dục nếu bị viêm gan C
Người bị viêm gan C không được quan hệ tình dục là không đúng nhưng cần lưu ý. Virus viêm gan C lây qua tiếp xúc với máu của người đã nhiễm virus. Các hoạt động tình dục làm tăng nguy cơ tiếp xúc với máu (quan hệ tình dục qua đường hậu môn và quan hệ tình dục trong thời kỳ kinh nguyệt) có nguy cơ cao. Nếu người vợ hoặc chồng bị viêm gan C được khuyến nghị sử dụng bao cao su thường xuyên để ngăn ngừa lây truyền.
Nguy cơ lây truyền cao hơn ở những người nhiễm HIV và những người có quan hệ tình dục với nhiều bạn tình có nguy cơ nhiễm virus viêm gan C.
Người bị viêm gan đều bị vàng da
Vàng da là một dấu hiệu của các vấn đề về gan, nhưng không phải tất cả các virus viêm gan đều gây ra các vấn đề về gan ngay lập tức. Một số người mắc bệnh viêm gan C không có triệu chứng gì khi virus đã phá hủy gan nghiêm trọng đến khi xuất hiện vàng da hoặc các triệu chứng khác. Đôi lúc quá trình này kéo dài hàng chục năm.
Viêm gan C có tính chất di truyền
Một số người lầm tưởng rằng viêm gan C có tính chất di truyền có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng sự thật là viêm gan C là một loại virus, không phải do di truyền hay di truyền từ cha mẹ. Bệnh viêm gan có thể truyền từ mẹ sang con trong quá trình sinh nở. Tuy nhiên, khả năng điều này xảy ra là khoảng 2-8%.
Có thuốc chủng ngừa cho tất cả các loại viêm gan
Hiện nay đã có vaccine phòng bệnh viêm gan A và B nhưng chưa có vaccine chủng ngừa viêm gan C. Do đó, người lớn, trẻ em được khuyên tiêm các loại vaccine phòng các bệnh viêm gan đã có.
Viêm gan C không thể tồn tại bên ngoài cơ thể con người
Vào năm 2014, các nhà nghiên cứu tại Đại học Yale đã phát hiện ra rằng bệnh viêm gan C sống được 6 tuần sau khi khô trên bề mặt và có thể có khả năng lây nhiễm cho ai đó.
Không thể mắc bệnh viêm gan C hai lần
Nhiễm virus viêm gan C một lần không cung cấp khả năng miễn dịch chống lại virus tái phát. Một người có thể bị nhiễm lại virus viêm gan C sau khi loại bỏ virus một cách tự nhiên hoặc sau khi được điều trị bằng thuốc. Điều quan trọng là bệnh nhân phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa tái nhiễm.
Kim Uyên
(Theo Medical News Today)