Anh Vũ Ngọc Minh (Gia Lâm, Hà Nội) kể, anh sờ thấy có khối u nhỏ ở gần núm vú trái 10 năm trước. Thấy u không gây đau, anh nghĩ bình thường nên không đi khám. Vừa qua, khi khối u nổi gồ lên rõ rệt, da đổi màu sạm, anh đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội kiểm tra và phát hiện mắc ung thư vú.
"Tôi rất sốc vì trong gia đình chưa có ai mắc ung thư vú. Bản thân tôi trước nay vẫn nghĩ bệnh này chỉ xảy ra ở phụ nữ", anh Minh nói.
Theo BS.CKII Lê Nguyệt Minh, Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh và Điện quang can thiệp, Bệnh viện Tâm Anh Hà Nội, bệnh của anh Minh đã bước vào giai đoạn ba. Khối u kích thước không quá lớn (30x17 mm) nhưng đã xâm lấn vào da, làm da đổi màu; xâm lấn vào cơ ngực nên cứng chắc và không còn di động, có di căn hạch nách. Người bệnh phải điều trị hóa chất, kết hợp phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ mô vú có ung thư, nạo vét hạch nách và xạ trị.
Bác sĩ Minh cho biết nhiều người quan niệm ung thư vú là bệnh của phụ nữ nhưng thực tế vẫn có một tỷ lệ nhất định nam giới mắc loại ung thư này dù rất hiếm. Theo Tạp chí sức khỏe Vú châu Âu, số ca ung thư vú chiếm dưới 1% tổng số ca ung thư ở nam trên thế giới. Tại Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore (NCCS), trong 18 năm ghi nhận 62 ca mắc ung thư vú là nam giới. Tuy nhiên, một số báo cáo cho thấy tỷ lệ ung thư vú ở nam có xu hướng gia tăng trong vài thập kỷ gần đây.
Tỷ lệ ung thư vú ít gặp ở nam là do lượng mô vú tương đối ít và cơ thể sản xuất hormone estrogen và progesteron (hai hormone thúc đẩy sản xuất tế bào ung thư vú) ít hơn nữ. "Chính vì hiếm gặp nên nam giới thường có tâm lý chủ quan, bỏ qua việc tầm soát ung thư vú. Đa phần bệnh được phát hiện ở giai đoạn muộn (ba hoặc bốn), tiên lượng tử vong cao", bác sĩ Minh nhấn mạnh.
Một nghiên cứu của Mỹ năm 2019 cho thấy, nguy cơ tử vong do ung thư vú ở nam cao hơn đến 20% so với nữ giới, trong đó nguyên nhân hàng đầu là do phát hiện muộn. Theo thống kê của Mỹ năm 2020, tỷ lệ nam giới mắc ung thư vú sống trên 5 năm là 79,1%, thời gian sống trung bình từ khi được chẩn đoán và điều trị đối với giai đoạn hai là 11,5 năm, giai đoạn ba chỉ còn 7,5 năm.
Triệu chứng ung thư vú ở nam và nữ có nhiều điểm tương đồng. Ở giai đoạn đầu, người bệnh có thể tự sờ thấy có khối u trong bầu ngực, không đau, có hiện tượng kích ứng hoặc lõm da, có hạch nách. Các phương pháp chẩn đoán sớm bao gồm siêu âm, chụp X-quang vú, MRI, chọc hút tế bào hoặc sinh thiết u.
Hiện nay, một số đơn vị khám, tầm soát ung thư vú, trong đó có tâBệnh viện Đa khoa Tâm Anh đã ứng dụng phương pháp chụp nhũ ảnh kỹ thuật số cắt lớp (DBT) thay thế cho phương pháp chụp 2D truyền thống. Theo bác sĩ Minh, kỹ thuật này có ưu điểm hạn chế tia X, giảm đau khi ép vú, tăng độ chính xác, có thể phát hiện khối u kích thước nhỏ... Phương pháp sinh thiết u có hỗ trợ hút chân không (VABB) giúp lấy toàn bộ khối u để chẩn đoán chính xác bệnh, ngay cả khi khối u rất nhỏ, không gây triệu chứng. Nếu phát hiện ở giai đoạn đầu, ung thư vú có thể chữa khỏi hoàn toàn bằng phẫu thuật cắt bỏ khối u, xạ trị tại chỗ và dùng thuốc nội tiết để phòng tái phát.
Ở giai đoạn tiến triển, khối u nổi gồ lên, da vùng u đổi màu sậm và sần như vỏ cam, bắt đầu xuất hiện thêm các triệu chứng như co rút núm vú hoặc tiết dịch ở núm vú, cứng và đau núm vú. Lúc này, bác sĩ xem xét phối hợp nhiều phương pháp như xạ trị, hóa trị, liệu pháp nội tiết, nhắm trúng đích tùy vào độ lớn của khối u, mức độ lan rộng và di căn.
Nam giới có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn nếu thuộc một trong các nhóm như người trên 50 tuổi; mang đột biến gene BRCA1 và BRCA2; tiền sử gia đình có người từng mắc ung thư vú; từng tiếp xúc bức xạ ở vùng ngực; sử dụng thuốc có chứa estrogen (một loại hormone giúp phát triển và duy trì các đặc điểm giới tính nữ); phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn; mắc hội chứng Klinefelter; xơ gan; thừa cân và béo phì. Bác sĩ Minh khuyến cáo, những người này nên chủ động tầm soát ung thư vú mỗi 6-12 tháng một lần bằng các phương pháp như chụp X-quang tuyến vú, siêu âm tương tự với nữ giới.
Hoài Phạm
Ảnh: Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh