BS.CKII Đàm Thị Cẩm Linh (Khoa nội thần kinh, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM) cho biết, đột quỵ (tai biến mạch máu não) là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ ba (sau tim mạch và ung thư) và là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế, để lại cho người bệnh, gia đình và xã hội gánh nặng lớn. Có thể kể đến các hậu quả thường gặp của đột quỵ bao gồm: liệt nửa người, mất hoặc giảm khả năng đi lại, rối loạn ngôn ngữ, giảm trí nhớ, ăn uống nghẹn sặc,... nặng hơn là tử vong hoặc sống thực vật.
Đột quỵ được phân thành 2 nhóm chính bao gồm: xuất huyết não (do vỡ mạch máu não) và nhồi máu não (do tắc động mạch não).
Xuất huyết não là tình trạng vỡ mạch máu não làm máu chảy vào nhu mô não, khoang dưới nhện hay não thất. Máu tụ lại thành huyết khối. Sự chèn ép, tăng áp lực nội sọ và thiếu máu nuôi làm một hay nhiều nhu mô não bị hoại tử. Nguyên nhân thường gặp nhất là do tăng huyết áp, ít gặp hơn là do vỡ túi phình động mạch não, bệnh mạch máu não dạng bột, rối loạn đông máu...
Nhồi máu não xảy ra khi một động mạch cung cấp máu cho não bị tắc nghẽn. Có hai cơ chế gây tắc nghẽn động mạch não là cơ chế huyết khối và cơ chế thuyên tắc.
Với cơ chế huyết khối, các mảng xơ vữa bên trong thành mạch có thể tiến triển gây hẹp dần lòng mạch. Các tổn thương này có thể dẫn đến sự kết tập bất thường của tiểu cầu tại vị trí hẹp, làm lòng mạch bị tắc nghẽn hoàn toàn. Hậu quả là một phần của não bị thiếu máu nuôi, dẫn đến đột quỵ do thiếu máu tại chỗ.
Với cơ chế thuyên tắc, động mạch bị tắc nghẽn do huyết khối từ nơi khác đến gây lấp mạch. Huyết khối này có thể được hình thành từ tim hoặc do mảng xơ vữa động mạch bong tróc ra. Dạng đột quỵ này được gọi là đột quỵ do thuyên tắc.
Bác sĩ Cẩm Linh chia sẻ thêm, bất kỳ ai cũng có thể có nguy cơ bị đột quỵ. Tuy nhiên, các đối tượng được khuyến cáo nên chủ động tầm soát đột quỵ (tai biến mạch máu não) định kỳ những người có các yếu tố nguy cơ bao gồm: Nhóm người mắc bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, béo phì; những người mắc các bệnh lý tim mạch: bệnh van tim, rung nhĩ, hẹp động mạch cảnh; bệnh hồng cầu hình liềm, rối loạn tăng đông; người đang dùng thuốc ngừa thai hoặc điều trị hormon thay thế ở tuổi mãn kinh. Những người từng bị chấn thương đầu, cổ; có tiền sử gia đình bị đột quỵ cũng có nguy cơ cao nên chủ động tầm soát.
Ngoài ra, lối sống cũng ảnh hưởng đến khả năng đột quỵ như chế độ ăn, uống (ăn mặn, uống rượu), ít vận động; hút thuốc lá hoặc lạm dụng thuốc: cocaine, thuốc phiện, amphetamine.
"Những người từng bị đột quỵ có nguy cơ tái phát cao hơn người khỏe mạnh. Mục tiêu tầm soát đột quỵ ở nhóm này là tìm các nguyên nhân tạo ra cục máu đông làm tắc mạch não hoặc nguyên nhân làm vỡ mạch não tương tự như với trường hợp chưa bị đột quỵ như: hẹp động mạch não, tăng huyết áp, đái tháo đường, các bệnh về tim, lóc tách động mạch...", bác sĩ Cẩm Linh nói.
Cách phòng ngừa đột quỵ
Đột quỵ không loại trừ một ai nhưng có thể chủ động phòng ngừa bằng cách thường xuyên tầm soát để phát hiện các yếu tố bất thường, hạn chế thấp nhất rủi ro. Theo bác sĩ Cẩm Linh, mục tiêu của tầm soát đột quỵ nhằm kiểm soát và điều trị những bệnh mạn tính vốn là nguy cơ chính gây đột quỵ (tai biến mạch máu não) như: điều trị tăng huyết áp, phát hiện sớm và điều trị bệnh tim, điều trị bệnh đái tháo đường, điều trị rối loạn chuyển hóa mỡ, điều trị hẹp động mạch chủ có triệu chứng, điều trị chống kết tập tiểu cầu hoặc kháng đông tùy trường hợp.
Thay đổi lối sống để phòng ngừa đột quỵ bằng cách cai thuốc lá, cai rượu; giảm stress; chế độ ăn lành mạnh, giảm mặn, giảm đường, béo; duy trì trọng lượng cơ thể phù hợp, tập thể dục thường xuyên...
Khám sức khỏe định kỳ 3-6 tháng giúp tầm soát bệnh. Người bệnh nếu được bác sĩ kê toa thì cần tuân thủ sử dụng thuốc theo đúng toa, chỉ ngừng sử dụng khi có ý kiến của bác sĩ.
Với trường hợp từng bị đột quỵ, bác sĩ Cẩm Linh khuyên nên tầm soát 3-6 tháng một lần. Trong trường hợp đặc biệt, ví dụ kết quả chụp mạch máu não phát hiện có đoạn hẹp hay phình, người bệnh cần được theo dõi định kỳ theo chỉ dẫn của bác sĩ. Người bình thường chưa từng bị đột quỵ, tốt nhất nên đi tầm soát đột quỵ định kỳ mỗi năm một lần, nhất là với những người có tuổi hoặc có các yếu tố nguy cơ kể trên.
Thanh Danh