Khối u ung thư buồng trứng có thể xuất phát từ một hoặc cả hai buồng trứng. Bệnh có thể xảy ra ở nhiều độ tuổi nhưng thường gặp nhất ở phụ nữ trên 50. Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, có các yếu tố làm tăng hoặc giảm nguy cơ ung thư buồng trứng mà phụ nữ có hoặc không thể kiểm soát.
Yếu tố làm tăng nguy cơ
Độ tuổi: Phụ nữ càng lớn tuổi, nguy cơ ung thư buồng trứng càng cao. Hầu hết các bệnh ung thư này phát triển sau thời kỳ mãn kinh.
Thừa cân hoặc béo phì: Theo các nhà nghiên cứu, có mối liên hệ giữa thừa cân, béo phì và ung thư buồng trứng. Phụ nữ béo phì có khả năng mắc ung thư này cao hơn phụ nữ có cân nặng bình thường.
Mang thai sau 35 tuổi: Phụ nữ có con sau 35 tuổi hoặc sinh con chưa đủ tháng làm tăng nguy cơ mắc loại ung thư này.
Liệu pháp hormone: Phụ nữ có khả năng bị ung thư buồng trứng nếu điều trị bằng hormone sau khi mãn kinh, nhất là chỉ dùng estrogen (không progesterone) trong nhiều năm.
Tiền sử gia đình: Người có tiền sử gia đình bị ung thư buồng trứng, ung thư vú hoặc đại trực tràng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng.
Có hội chứng ung thư gia đình: Hội chứng này chiếm từ 5-10% các ca ung thư buồng trứng và gây ra bởi những thay đổi (đột biến) di truyền ở một số gene như BRCA1, BRCA2. Khoảng 44% phụ nữ có đột biến BRCA1 và khoảng 17% phụ nữ có đột biến BRCA2 sẽ phát triển ung thư buồng trứng trước 80 tuổi.
Từng bị ung thư vú: Phụ nữ từng mắc ung thư này cũng có khả năng ung thư buồng trứng.
Hút thuốc: Chưa có nhiều nghiên cứu chứng minh, hút thuốc là làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Tuy nhiên, hút thuốc có liên quan đến sự gia tăng một loại khối u ung thư buồng trứng biểu mô không phổ biến là ung thư biểu mô nhầy.
Yếu tố làm giảm nguy cơ
Mang thai và cho con bú: Phụ nữ mang thai trước 26 tuổi và sinh con đủ tháng có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn. Mỗi lần mang thai đủ tháng tiếp theo làm giảm nguy cơ mắc bệnh này hơn nữa. Nuôi con bằng sữa mẹ cũng góp phần bảo vệ phụ nữ trước loại ung thư này.
Kiểm soát sinh sản: Phụ nữ đã sử dụng thuốc tránh thai có nguy cơ thấp hơn. Sử dụng vòng tránh thai (dụng cụ tử cung) trong thời gian ngắn cũng giảm khả năng mắc loại ung thư này. Phụ nữ đã cắt bỏ tử cung giảm 1/3 nguy cơ ung thư buồng trứng.
Một số giả thuyết cho rằng có mối liên hệ giữa rụng trứng và nguy cơ ung thư buồng trứng. Mang thai và uống thuốc tránh thai làm giảm số lần buồng trứng giải phóng trứng nên có thể giảm khả năng ung thư.
Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến nghị, phụ nữ nên tham khảo ý kiến của bác sĩ nếu có các vấn đề về di truyền. Bác sĩ sẽ xem xét tiền sử gia đình, có thể gợi ý xét nghiệm gene để đưa ra lời khuyên. Một số phương pháp sàng lọc có thể giúp phát hiện sớm ung thư buồng trứng. Phụ nữ có đột biến gene BRCA1 nên bắt đầu làm các xét nghiệm sàng lọc ở độ tuổi từ 30-35 và gene BRCA2 là từ 35-40 tuổi.
Mai Cat (Theo Everyday Health)