Helicobacter pylori (H. pylori) là một loại vi khuẩn thường gây nhiễm trùng đường tiêu hóa. Nhiều người nhiễm H. pylori không biểu hiện thành các triệu chứng rõ rệt. Một số khác lại gặp phải các vấn đề đường tiêu hóa như viêm dạ dày, loét dạ dày - tá tràng và nghiêm trọng hơn là ung thư dạ dày.
Nhiều cách khác nhau có thể được sử dụng để phát hiện vi khuẩn H. pylori, bao gồm xét nghiệm máu, phân, hơi thở và nội soi. Nếu đang gặp phải các vấn đề tiêu hóa, việc xét nghiệm chẩn đoán và điều trị H. pylori có thể giúp bệnh nhân ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.
Xét nghiệm máu
Bác sĩ Vũ Trường Khanh, Trưởng khoa Tiêu hóa - Gan mật - Tụy, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội cho biết, xét nghiệm máu được sử dụng để đo lượng kháng thể có liên quan đến tình trạng nhiễm khuẩn H. pylori trong máu của bệnh nhân. Kháng thể là những protein được hệ miễn dịch tạo ra để chống lại các tác nhân gây bệnh từ môi trường bên ngoài như vi khuẩn. Xét nghiệm này chỉ giúp trong nghiên cứu dịch tễ về tỷ lệ nhiễm H. pylori, không thể biết liệu bệnh nhân đang nhiễm H. pylori hay là mắc trong quá khứ, vì thế không dùng để chẩn đoán và theo dõi điều trị diệt H.pylori.
Xét nghiệm phân
Xét nghiệm phân sẽ giúp bác sĩ phát hiện các dấu vết của vi khuẩn H. pylori trong phân. Phương pháp xét nghiệm phân được sử dụng phổ biến nhất là xét nghiệm phân tìm kháng nguyên có liên quan đến H. pylori. Kháng nguyên là các chất lạ, thường là protein, có khả năng kích hoạt phản ứng miễn dịch trong cơ thể. Bác sĩ cũng có thể tiến hành nuôi cấy để tìm kiếm vi khuẩn H. pylori trong phân của bệnh nhân. Xét nghiệm này thường dùng cho chẩn đoán nhiễm H.Pylori ở trẻ em.
Thuốc kháng sinh, thuốc ức chế bơm proton (PPI) và bismuth subsalicylate sẽ ảnh hưởng đến độ chính xác của xét nghiệm phân. Nếu bệnh nhân đã được điều trị H. pylori bằng các thuốc này trước đó, bác sĩ thường sẽ đợi ít nhất 4 tuần sau khi hoàn thành đợt điều trị để thực hiện xét nghiệm cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân đang dùng PPI, bác sĩ sẽ yêu cầu họ ngừng dùng thuốc trong 1-2 tuần trước khi xét nghiệm.
Xét nghiệm hơi thở
Với xét nghiệm kiểm tra hơi thở phát hiện vi khuẩn H. pylori, bệnh nhân thở vào một túi, sau đó bệnh nhân được uống thuốc có C 13 hoăc C14. Sau khi uống dung dịch này 20 phút, bệnh nhân được yêu cầu thở vào một túi nhựa khác. Các bác sĩ sẽ đo lượng khí CO2 mà bệnh nhân thở ra ở cả hai túi để so sánh. Xét nghiệm này có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trên 95%.
Độ chính xác của xét nghiệm hơi thở cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các thuốc kháng sinh, bismuth subsalicylate và PPI. Nếu bệnh nhân sử dụng các loại thuốc này, bác sĩ sẽ chờ thêm một thời gian trước khi tiến hành xét nghiệm.
Nội soi
Nội soi đường tiêu hóa trên cho phép bác sĩ quan sát được bên trong thực quản, dạ dày, hành tá tràng và một phần tá tràng của người bệnh. Bác sĩ sẽ đưa một ống nội soi mỏng có gắn đèn, máy quay từ miệng vào đường tiêu hóa và tiến hành quan sát để tìm kiếm các bất thường. Trong quá trình này, bác sĩ cũng có thể lấy một mẫu mô nhỏ (sinh thiết) để tiến hành kiểm tra, tìm kiếm vi khuẩn H. pylori.
Phương pháp nội soi không được khuyến nghị cho mục đích phát hiện vi khuẩn H. pylori đơn thuần bởi nó xâm lấn nhiều hơn xét nghiệm hơi thở hoặc xét nghiệm phân. Phương pháp này được dùng để chẩn đoán các bệnh đường tiêu hóa trên.
Phương Quỳnh (Theo Mayo Clinic, Medlineplus, Cleveland Clinic)