Theo BS.CKII Trần Thị Thiên Hương, khoa Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, ung thư vú giai đoạn đầu thường có tiên lượng tốt, tỷ lệ sống 5 năm không tái phát bệnh sau điều trị đối với ung thư vú giai đoạn 0-I là 98-100%, giai đoạn II là 85-98% và giai đoạn III là 70-90%. Ở giai đoạn di căn toàn thân (giai đoạn IV), tiên lượng sống kém hơn.
Mục đích trong điều trị ung thư vú giai đoạn sớm là giảm khả năng tái phát tại chỗ và di căn xa. Điều trị ung thư vú giai đoạn sớm thường bao gồm phẫu thuật cắt rộng tổn thương (phẫu thuật bảo tồn hoặc cắt tuyến vú) kèm có hay không nạo hạch nách, xạ trị và điều trị toàn thân (liệu pháp nội tiết, hóa trị, liệu pháp nhắm trúng đích). Các liệu pháp toàn thân có thể được thực hiện trước hoặc sau phẫu thuật tùy thuộc giai đoạn, đặc tính sinh học của bệnh. Điều này giúp kéo dài thời gian sống, không tái phát bệnh.
Điều trị ung thư vú giai đoạn trễ, di căn thường chủ yếu là các liệu pháp toàn thân, có thể kết hợp xạ trị hay phẫu thuật để giảm triệu chứng bệnh, kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng sống.
Phẫu thuật
Hiện nay, có nhiều phương pháp phẫu thuật điều trị ung thư vú như:
Phẫu thuật bảo tồn vú
Người bệnh được cắt rộng khối bướu, cắt một phần tư hoặc cắt bỏ một phần vú. Sau phẫu thuật bảo tồn, người bệnh được chỉ định xạ trị vào toàn bộ tuyến vú để phòng ngừa tái phát.
Phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú (đoạn nhũ)
Đây là phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú có khối u, quầng và núm vú, chỉ để lại cơ và da thành ngực. Phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp ung thư vú không thể phẫu thuật bảo tồn hay những trường hợp mong muốn được phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú.
Phẫu thuật cắt bỏ vú có thể được áp dụng cho các trường hợp phụ nữ nguy cơ cao (có đột biến gene BRCA1, BRCA2; tiền sử bản thân - tiền sử gia đình) để phòng ngừa ung thư vú.
Phẫu thuật nạo vét hạch nách hoặc sinh thiết hạch lính gác
Phẫu thuật nạo vét hạch nách được chỉ định trong các trường hợp ung thư vú xâm lấn, có hạch nách. Phương pháp này còn được áp dụng trong các trường hợp ung thư vú tiến triển tại chỗ, ung thư vú dạng viêm sau hóa trị. Mục đích của phẫu thuật nạo vét hạch nách là giúp kiểm soát bệnh, giảm tái phát hạch nách và tiên lượng bệnh.
Sinh thiết hạch lính gác (hạch gác cửa) được chỉ định cho các trường hợp ung thư vú xâm lấn giai đoạn sớm, không ghi nhận hạch nách di căn khi khám bệnh hoặc các xét nghiệm kiểm tra. Bác sĩ cũng có thể chỉ định sinh thiết hạch lính gác trong các trường hợp ung thư vú tại chỗ trước khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú.
Phẫu thuật tái tạo vú
Phẫu thuật tái tạo vú nhằm tạo hình vú mới tương xứng với vú còn lại bằng cách đặt túi độn hoặc dùng các mô từ bộ phận khác của cơ thể để tạo ra một bộ ngực mới. Việc tái tạo có thể được thực hiện cùng lúc với phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc có thể thực hiện sau đó.
Xạ trị
Xạ trị vú - thành ngực sau phẫu thuật đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát ung thư tại chỗ, giúp giảm nguy cơ tái phát ung thư. Ở giai đoạn di căn, xạ trị giúp giảm nhẹ triệu chứng. Phương pháp này thường được thực hiện một tháng sau khi phẫu thuật hoặc hóa trị để cơ thể có thời gian phục hồi.
Xạ trị được chỉ định trong trường hợp: bệnh giai đoạn sớm nhằm hỗ trợ sau phẫu thuật để giảm khả năng tái phát tại chỗ tại vùng; bệnh ở giai đoạn di căn xa nhằm giảm nhẹ triệu chứng (chống phù nề não trong di căn não, giảm đau trong di căn xương, chống chèn ép tủy ngăn ngừa liệt trong di căn tủy...).
Điều trị toàn thân
Phương pháp này bao gồm hóa trị, liệu pháp nội tiết, liệu pháp nhắm trúng đích và miễn dịch. Đối với bệnh giai đoạn sớm, điều trị toàn thân trước phẫu thuật nhằm giảm kích thước khối u, hạch vùng, giúp phẫu thuật thuận lợi hơn; điều trị toàn thân sau phẫu thuật nhằm tiêu diệt các di căn vi thể, giảm khả năng tái phát bệnh và di căn xa.
Khi bệnh ở giai đoạn di căn, điều trị toàn thân nhằm giảm nhẹ triệu chứng, kéo dài thời gian sống còn cho bệnh nhân. Tùy theo giai đoạn bệnh, tính chất sinh học của khối u, bác sĩ sẽ chỉ định phác đồ sử dụng các loại thuốc đơn lẻ hoặc phối hợp các loại với nhau (hóa trị hoặc liệu pháp nội tiết có hay không kết hợp thuốc nhắm trúng đích hoặc hóa trị có hay không kết hợp thuốc ức chế điểm miễn dịch...).
Hóa trị
Tùy thuộc giai đoạn bệnh và mục đích điều trị, bác sĩ sẽ chỉ định thuốc hóa trị đường uống hoặc đường tiêm, đơn chất hoặc phối hợp nhiều thuốc. Các phương pháp khác như liệu pháp nội tiết, dùng thuốc điều trị nhắm trúng đích, liệu pháp ức chế điểm miễn dịch...
Bác sĩ Hương cho biết, tùy vào giai đoạn ung thư vú, loại giải phẫu bệnh, tính chất sinh học của khối bướu, thể trạng và mong muốn của bệnh nhân, bác sĩ sẽ tư vấn các phương pháp điều trị phù hợp. Điều trị ung thư vú giai đoạn nào cũng cần sự phối hợp chặt chẽ giữa bệnh nhân và bác sĩ.
Người bệnh nên thường xuyên trao đổi với bác sĩ về các triệu chứng gặp phải, kế hoạch điều trị và các phương pháp chăm sóc tại nhà. Điều này giúp bệnh nhân chủ động hơn với việc chữa trị, bác sĩ cũng nắm bắt kịp thời những thay đổi về sức khỏe cũng như nguyện vọng của người bệnh và thân nhân để tư vấn tốt nhất.
Cũng như bất cứ loại ung thư nào, việc phát hiện và điều trị ung thư vú càng sớm thì cơ hội sống sau 5 năm càng cao và ngược lại. Do đó, tầm soát ung thư vú rất quan trọng.
Bác sĩ Hương cho biết thêm, hiện nay, có 3 phương pháp khảo sát tuyến vú bao gồm chụp X-quang (chụp nhũ ảnh), siêu âm và chụp cộng hưởng từ (MRI). Trong đó, chụp nhũ ảnh kỹ thuật số (DBT) là bước tiến về mặt công nghệ với đầu đèn xoay góc rộng 50 độ có thể bộc lộ tối đa tính chất đường bờ của tổn thương giúp sàng lọc, phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm cũng như các bệnh lý tuyến vú khác. Hơn nữa, nhờ công nghệ giảm liều tia Prime và nén vú tự động, phương pháp này giúp giảm đau và giảm liều tia X cho bệnh nhân.
Nguyên Phương