Theo Ủy ban Hỗn hợp của Mỹ về Ung thư, ung thư buồng trứng được chia thành 4 giai đoạn. Ở giai đoạn một, tế bào ung thư nằm trong buồng trứng hoặc các ống dẫn trứng. Giai đoạn 1A, ung thư khu trú bên trong của một bên buồng trứng hoặc khu trú bên trong một ống dẫn trứng. Giai đoạn 1B, khối u phát triển ở cả hai buồng trứng hoặc nằm bên trong của nhiều ống dẫn trứng.
Giai đoạn 1C, lúc này tế bào ung thư vẫn ở buồng trứng, các ống dẫn trứng nhưng có thể kèm theo các tình trạng khác nhau. Mô (u nang) xung quanh khối u bị vỡ gây tràn dịch, các tế bào ung thư có thể rò rỉ vào bụng và xương chậu (giai đoạn 1C1). Khối u phát triển nằm trên bề mặt ngoài của buồng trứng hoặc ống dẫn trứng (1C2). Các tế bào ung thư được tìm thấy trong dịch ở bụng (cổ trướng) và xương chậu (1C3).
Khi ung thư buồng trứng ở giai đoạn hai, các tế bào khối u đã lan ra ngoài buồng trứng hoặc ống dẫn trứng đến các cơ quan vùng chậu lân cận (tử cung, bàng quang, đại tràng sigma, trực tràng) hoặc phúc mạc. Phúc mạc là lớp thanh mạc liên tục, che phủ mặt trong thành bụng, bọc lấy tất cả các tạng thuộc ống tiêu hóa, tạng khác trong ổ bụng.
Ung thư giai đoạn ba, khối u lan đến các hạch bạch huyết ngoài vùng chậu hoặc cạnh động mạch chủ bên ngoài phúc mạc. Tế bào ung thư cũng có thể lan rộng hoặc phát triển thành các cơ quan bên ngoài khung chậu. Ở giai đoạn 3A, các xét nghiệm hình ảnh có thể nhìn thấy các tế bào ung thư nhỏ trong niêm mạc bụng.
Giai đoạn 3B, tình trạng giống giai đoạn 3A nhưng các khối u lắng đọng lớn hơn và không quá hai cm. Giai đoạn 3C, các khối u ung thư có kích thước lớn hơn hai cm, có thể ở bên ngoài (vỏ nang) của gan hoặc lá lách.
Ung thư buồng trứng ở giai đoạn 4 là giai đoạn di căn. Ở giai đoạn 4A, các tế bào khối u có thể xuất hiện trong chất lỏng xung quanh phổi, gọi là tràn dịch màng phổi ác tính. Sang giai đoạn 4B, ung thư đã lan vào bên trong lá lách hoặc gan, đến các hạch bạch huyết ở xa phúc mạc hoặc đến các cơ quan, mô khác như phổi, xương.
Để chẩn đoán bệnh, bác sĩ sẽ thực hiện các xét nghiệm, phẫu thuật để lấy các mẫu mô từ vùng xương chậu, bụng hoặc ở những nơi khác trong cơ thể.
Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, ung thư buồng trứng được chẩn đoán, điều trị ở giai đoạn đầu có kết quả và tiên lượng tốt nhất. Phụ nữ được điều trị ung thư này trong giai đoạn 1A, 1B có tỷ lệ sống sót sau 5 năm lên tới 93,1%. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ được chẩn đoán khi ung thư đã lan ra ngoài buồng trứng. Do ở giai đoạn sớm, loại ung thư này thường không có triệu chứng hoặc triệu chứng thường là đầy bụng, đau bụng nên dễ nhầm lẫn với các tình trạng sức khỏe khác.
Đối với giai đoạn hai và ba (ung thư khu vực), tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm chẩn đoán là 74,2%. Khi ung thư buồng trứng ở giai đoạn di căn (cuối), tỷ lệ sống sót tương đối 5 năm giảm xuống còn 30,8%.
Tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm đối với tất cả giai đoạn là 49,7%. Các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến tiên lượng sống như sức khỏe tổng thể, tuổi tác, mức độ đáp ứng của bệnh nhân với phương pháp điều trị. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm thấp có thể do chậm trễ điều trị, khó chẩn đoán ung thư buồng trứng ở giai đoạn đầu.
Những thống kê này trên phụ nữ được chẩn đoán, điều trị ung thư buồng trứng năm 2012-2018. Hiện có thuốc mới, phương pháp điều trị tiên tiến có thể giúp kéo dài tuổi thọ bệnh nhân hơn.
Mai Cat (Theo Everyday Health)
Độc giả có thể đặt câu hỏi về bệnh ung thư tại đây để được bác sĩ giải đáp.