Những năm qua anh Tân không có triệu chứng bệnh tim, chỉ thỉnh thoảng choáng váng thoáng qua. Ba tháng trước, anh đo huyết áp chỉ số khoảng 180-200 mmHg không kèm triệu chứng bất thường, nghĩ do làm việc căng thẳng nên tự mua thuốc uống hạ áp. Huyết áp anh sau đó thường khoảng 160-180 mmHg.
Con trai của anh Tân bị hẹp eo động mạch chủ, được phẫu thuật lúc 5 tuổi. Mới đây, anh đưa con đến viện tái khám, BS.CKI Phạm Thục Minh Thủy, khoa Tim bẩm sinh, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, tư vấn anh Tân khám tầm soát bởi hẹp eo động mạch chủ có tính di truyền, là một trong 6 bệnh tim bẩm sinh thường gặp. Kết quả anh Tân bị tăng huyết áp, huyết áp tứ chi chênh lệch rõ (chi trên xấp xỉ 200 mmHg, chi dưới khoảng 120 mmHg), siêu âm tim xác định anh cũng mắc bệnh này. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng gây tăng huyết áp kháng trị với thuốc và huyết áp sẽ được kiểm soát sau can thiệp hẹp eo.
Động mạch chủ là động mạch lớn nhất từ tim đi ra ngoài, vận chuyển máu giàu oxy từ tim đến não và các phần còn lại của cơ thể. Ở bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ, lượng máu giảm khi đi qua đoạn động mạch chủ bị thu hẹp. Tình trạng này gây giảm tưới máu đến các cơ quan ổ bụng và các chi dưới.
Bác sĩ còn phát hiện anh Tân mắc bệnh van động mạch chủ hai mảnh (bình thường van động mạch chủ có ba mảnh van) do dính giữa lá vành phải và lá vành trái, gây ra hiện tượng đóng mở bất thường của van, hở van động mạch chủ. Đồng thời, ảnh hưởng của dòng máu xoáy bất thường khi đi qua van dẫn đến giãn xoang valsalva và giãn động mạch chủ lên.
Bệnh hẹp eo động mạch chủ của anh Tân hiện đã diễn tiến, dẫn đến quá tải áp lực trong động mạch phía trước chỗ hẹp, gây phì đại thất trái và tăng huyết áp chi trên. Tình trạng này cũng gây giảm tưới máu đến các cơ quan ổ bụng và chi dưới. "Đây là nguyên nhân khiến huyết áp của anh Tân không hạ dù điều trị bằng thuốc", bác sĩ Thủy nói.
Cùng điều trị cho anh Tân, BS.CKII Vũ Năng Phúc, Trưởng khoa Tim bẩm sinh, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, đánh giá tình trạng bệnh nguy hiểm (hẹp khít eo động mạch chủ) tạo áp lực lớn lên tâm thất trái. Nếu không can thiệp đúng thời điểm, bệnh có thể diễn tiến nặng gây tăng huyết áp mạn tính, thậm chí biến chứng xuất huyết não, phình động mạch chủ, suy tim, suy thận, tử vong.
Các bác sĩ chụp cắt lớp vi tính (CT) động mạch chủ, phân tích dữ liệu và đo đạc chính xác đường kính, chiều dài chỗ hẹp. Êkíp quyết định chọn stent có màng bọc bên ngoài với đường kính 16 mm, nhằm giảm tối đa nguy cơ vỡ động mạch chủ. Bác sĩ Phúc đưa stent có gắn bóng ở đầu, đi từ động mạch vùng đùi đến vị trí eo động mạch chủ bị hẹp. Khi stent nằm đúng chỗ, bác sĩ nong bóng để stent nở ra, ôm sát thành động mạch chủ. Trước khi kết thúc thủ thuật, êkíp đo lại không chênh áp sau đặt stent, chụp kiểm tra để đảm bảo stent nở tốt, không bóc tách mạch máu. Anh Tân tỉnh táo sau can thiệp, huyết áp 130/80 mmHg, xuất viện hai ngày sau.

Bác sĩ Phúc (ngoài cùng bên phải) trong một ca can thiệp đặt stent cho bệnh nhân. Ảnh minh họa: Ngọc Hà
Hẹp eo động mạch chủ có thể điều trị nhưng cần theo dõi lâu dài. Bệnh nhân vẫn có nguy cơ tái hẹp, phình giãn động mạch chủ hoặc vẫn còn huyết áp cao, những ảnh hưởng của bệnh kèm theo, ví dụ hẹp hở van động mạch chủ của van động mạch chủ hai mảnh... Do đó, sau can thiệp điều trị, bệnh nhân cần ăn uống khoa học, tốt cho tim mạch, vận động điều độ, tái khám định kỳ. Phụ nữ đã điều trị hẹp eo động mạch chủ nếu muốn mang thai cần khám, trao đổi kỹ với bác sĩ.
Hẹp eo động mạch chủ tiềm ẩn nhiều biến chứng nguy hiểm và có thể phát hiện trễ do không có triệu chứng rõ ràng. Một số người có bộc lộ triệu chứng như da nhợt nhạt, đổ mồ hôi nhiều, thở nhanh, thở khó nhọc, mạch đập nhanh, ít bú (ở trẻ em), nhức đầu, huyết áp cao, có vấn đề về thận, yếu ở hai chân khi hoạt động thể chất (ở trẻ lớn và người lớn). Người xuất hiện bất thường hoặc có tiền sử gia đình mắc bệnh tim mạch cần đi khám sớm để điều trị kịp thời, hạn chế biến chứng.
Thu Hà
*Tên bệnh nhân đã được thay đổi
Độc giả gửi câu hỏi về bệnh tim mạch tại đây để bác sĩ giải đáp |