Tỷ lệ này được tính dựa trên hơn 297.000 trường hợp ung thư vú năm 2023. Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, tỷ lệ sống sót tương đối mô tả tỷ lệ phần trăm số người sống được sau chẩn đoán mắc ung thư trong một khoảng thời gian cụ thể. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm như trên được dùng phổ biến làm thước đo tiêu chuẩn.
Tiên lượng sống của bệnh nhân ung thư vú giai đoạn 4 (di căn) phụ thuộc vào các yếu tố như tuổi tác, lựa chọn điều trị, loại ung thư vú và các cơ quan nơi khối u lan đến.
Độ tuổi
Theo nghiên cứu năm 2020 của Đại học Y Chiết Giang, Trung Quốc, với hơn 172.000 người ung thư vú năm 2010-2015, phụ nữ mắc bệnh dưới 40 tuổi hoặc trên 79 tuổi tỷ lệ tử vong cao hơn các nhóm tuổi khác.
Phụ nữ trẻ có xu hướng mắc các loại ung thư vú ác tính. Phụ nữ trên 79 tuổi thường có sức khỏe kém hơn và ung thư đã lan rộng đến nhiều cơ quan.
Vị trí di căn
Các vị trí di căn phổ biến của ung thư vú là xương, gan, phổi và não. Nghiên cứu năm 2019 của Đại học Giao thông Tây An, Trung Quốc, với hơn 18.300 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn 4 (năm 2010-2015), vị trí khối u vú lây lan có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót sau 5 năm.
Cụ thể, tỷ lệ này đối với di căn xương là 39,8%, di căn phổi là 10,94%, di căn gan là 7,34%. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư vú di căn não là thấp nhất, chỉ 1,51%.
Phân nhóm ung thư
Với người bệnh ung thư vú giai đoạn 4, sự hiện diện hay thiếu hụt của các thụ thể hormone HR, HER2 có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót sau 5 năm.
Dựa trên hơn 297.000 trường hợp ung thư vú năm 2023, Viện Ung thư Quốc gia Mỹ chia tỷ lệ sống sót sau 5 năm của ung thư vú di căn theo phân nhóm ung thư như HER2 dương tính/HR dương tính là 45,6%, HER2 dương tính/HR âm tính là 39,5%, HER2 âm tính/HR dương tính khoảng 34%, HER2 âm tính/HR âm tính là 12,8%.
Kích thước khối u
Nghiên cứu năm 2019 của Đại học Cambridge, Anh, trên hơn 8.000 bệnh nhân ung thư vú từ năm 1993-2016, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của người bệnh ung thư vú di căn giảm khi kích thước khối u tăng lên. Khi kích thước khối u nguyên phát từ 4,8 cm trở xuống, tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm là 50%, tỷ lệ này là 25% nếu khối u nguyên phát kích thước trên 4,8 cm.
Điều trị
Các phương pháp điều trị ung thư vú di căn có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót.
Nghiên cứu trên của Đại học Cambridge cho thấy tỷ lệ sống sót sau 5 năm của người bệnh ung thư vú giai đoạn 4 điều trị chính bằng hóa trị hoặc liệu pháp hormone là 30%. Tỷ lệ này đối với bệnh nhân ung thư vú di căn phẫu thuật cắt bỏ ngực triệt để (gồm các mô vú, nhũ hoa, tất cả hạch bạch huyết gần ngực dưới cánh tay và các cơ thành ngực dưới vú) là 10%.
Đôi khi người bệnh ung thư vú có thể sống từ 10 năm trở lên, tỷ lệ sống sót sau 10 năm đối với người mới mắc ung thư vú di căn khoảng 13%. Người sống sót lâu hơn, từ 10 năm có thể do trẻ hơn, có nhiều khả năng có thụ thể estrogen, thụ thể progesterone hoặc khối u dương tính với HER2. Họ cũng là người ít có khả năng mắc các bệnh lý khác (bệnh đồng mắc), ít có khả năng di căn nội tạng như di căn đến bụng, gan.
Mai Cat (Theo Very Well Health)
Độc giả đặt câu hỏi về bệnh ung thư tại đây để bác sĩ giải đáp |