Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, ung thư cổ tử cung được phát hiện sớm có khả năng điều trị và chữa khỏi cao. Số lượng tế bào ung thư, giai đoạn, đáp ứng với điều trị, tuổi tác, sức khỏe tổng thể là những yếu tố quyết định tỷ lệ sống sót.
Giai đoạn ung thư được xác định bởi mức độ lây lan của tế bào ung thư. Giai đoạn càng thấp, ung thư càng ít di căn. Giai đoạn đầu, ung thư ít hoặc không lây lan dễ điều trị và chữa khỏi hơn các giai đoạn sau. Bệnh được chia thành 4 giai đoạn với mức độ nghiêm trọng tăng dần.
Giai đoạn 1: Ung thư khu trú chưa lan ra ngoài cổ tử cung. Khối u phát triển từ bề mặt vào sâu hơn các mô cổ tử cung. Giai đoạn này thường không có triệu chứng và thường đáp ứng rất tốt với điều trị. Nhiều phương pháp điều trị bệnh ở giai đoạn một không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Tỷ lệ sống sót 5 năm khi điều trị giai đoạn đầu lên tới 92%.
Giai đoạn 2: Là ung thư khu vực, khối u đã lan ra bên ngoài cổ tử cung và tử cung nhưng chưa lan đến các hạch bạch huyết hoặc các cơ quan lân cận. Người bệnh có thể gặp triệu chứng như đau vùng chậu, chảy máu âm đạo khi quan hệ tình dục, kinh nguyệt bất thường (ra máu giữa các kỳ kinh, chảy máu nhiều hơn trong kỳ kinh). Tỷ lệ sống sót 5 năm điều trị giai đoạn này là 58%.
Giai đoạn 3: Ung thư cổ tử cung đã lan ra bên ngoài cổ tử cung vào thành chậu hoặc phần dưới của âm đạo và có thể đã lan vào các hạch bạch huyết gần đó. Các khối u đủ lớn để ảnh hưởng xấu đến chức năng thận. Người bệnh thường có các triệu chứng như khó đi tiểu, đau lưng, sưng chân, nước tiểu có máu.
Giai đoạn 4: Đây giai đoạn cuối hay ung thư di căn, lúc này tế bào ung thư đã lan đến các cơ quan lân cận hoặc các khu vực khác của cơ thể như xương, phổi, gan hoặc não. Ung thư cổ tử cung tái phát cũng được tính vào giai đoạn này. Các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí di căn. Người bệnh mệt mỏi quá mức, suy nhược và khó thở. Khi ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết (giai đoạn 3) và di căn, tỷ lệ sống sót 5 năm sau điều trị chỉ còn 17%.

Bệnh nhân mắc ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu có thể đáp ứng điều trị tốt và chữa khỏi. Ảnh: Freepik.
Ung thư cổ tử cung thường bắt đầu từ các tế bào lót cổ tử cung. Có hai loại phổ biến gồm ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tuyến. Một số khối u có thể chứa cả hai loại tế bào nhưng ít phổ biến hơn. Ung thư biểu mô tuyến khó điều trị hơn và ít thành công hơn ung thư biểu mô tế bào vảy. Dựa trên phản ứng của bệnh nhân, giai đoạn mà bác sĩ có các phương pháp điều trị như phẫu thuật loại bỏ khối u hoặc phải cắt bỏ cổ tử cung (tử cung hoặc phần trên âm đạo), loại bỏ hạch bạch huyết, hóa trị, xạ trị, thuốc, liệu pháp miễn dịch.
Trong một số trường hợp, tế bào ung thư không phản ứng với điều trị, được gọi là kháng điều trị, kháng hóa trị liệu hoặc kháng thuốc. Kháng thuốc có thể xảy ra trong vài tuần, dần dần trong vài tháng hoặc vài năm. Khi đáp ứng điều trị thấp hơn mức tối ưu sẽ tạo cơ hội cho các tế bào ung thư mới hình thành và phát triển, gây tái phát bệnh. Việc chăm sóc bản thân và dinh dưỡng tốt là rất quan trọng trong điều trị sau chẩn đoán ung thư.
Ung thư cổ tử cung có thể tái phát vài tháng hoặc vài năm sau khi điều trị. Bệnh tái phát có thể do các tế bào ung thư ở vị trí không được phát hiện tại thời điểm điều trị hoặc do phát triển của tế bào ung thư mới. Tỷ lệ tái phát của loại ung thư này sau phẫu thuật là 11-22% ở giai đoạn một và 2, 28-64% ở giai đoạn 3 và 4. Ung thư cổ tử cung tái phát có thể tại chỗ (trong cổ tử cung), khu vực (trong các hạch bạch huyết hoặc mô lân cận) hoặc di căn ở các bộ phận khác của cơ thể. Vị trí tái phát sẽ quyết định phương pháp điều trị.
Ung thư tái phát thường khó điều trị. Ung thư cổ tử cung giai đoạn 4 thường không thể chữa khỏi. Các lựa chọn chăm sóc giảm nhẹ giảm bớt các triệu chứng, nâng cao chất lượng cuộc sống là những điều bệnh nhân nên làm ở giai đoạn này.
Mai Cát
(Theo Very Well Health)