Ung thư cổ tử cung là mối nguy hàng đầu đe dọa sức khỏe, tính mạng của phụ nữ trên toàn cầu. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm thế giới ghi nhận hơn 500.000 trường hợp mắc mới và có khoảng 250.000 ca tử vong. Theo thống kế của Globocan, tại Việt Nam, năm 2020 có hơn 4.000 ca mắc mới, với hơn 2.200 trường hợp tử vong.
Cổ tử cung có cấu tạo là một ống hình trụ có kích thước nhỏ khoảng 2.5 - 3 cm, được giới hạn bởi lỗ trong và lỗ ngoài, kích thước này sẽ thay đổi tùy theo lứa tuổi và có khả năng xóa mở khi chuyển dạ. Phần cổ tử cung nằm trong âm đạo gọi là cổ ngoài.
Ung thư cổ tử cung là bệnh lý ác tính của tế bào biểu mô lát (tế bào biểu mô vảy) hoặc tế bào biểu mô tuyến cổ tử cung phát triển bất thường dẫn đến hình thành các khối u trong cổ tử cung. Các khối u này nhân lên một cách mất kiểm soát, xâm lấn và tác động đến các cơ quan xung quanh, thường gặp nhất là di căn đến phổi, gan, bàng quang, âm đạo và trực tràng.
Phân loại
ThS.BS Đinh Thị Hiền Lê - Bác sĩ cao cấp khoa Phụ sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội cho biết, tùy theo loại ung thư cổ tử cung mà người bệnh được chỉ định phương pháp điều trị khác nhau:
- Ung thư biểu mô tế bào gai bắt đầu từ các tế bào mỏng, phẳng lót phần ngoài của cổ tử cung. Đây là dạng ung thư cổ tử cung phổ biến nhất xuất hiện do nhiễm virus gây u nhú ở người (HPV).
- Ung thư biểu mô tuyến xảy ra ở các tế bào tuyến dòng phần trên cổ tử cung, chiếm khoảng 10-20% tổng số các trường hợp mắc bệnh.
- Các dạng ung thư cổ tử cung khác như ung thư biểu mô tế bào nhỏ, ung thư mô liên kết - tuyến, ung thư biểu mô tuyến - tế bào gai, ung thư lympho, ung thư hắc tố... thường không có sự liên quan đến virus gây u nhú HPV, xác suất ít gặp hơn nhưng lại không thể phòng ngừa được như ung thư biểu mô tế bào gai.
Nguyên nhân
Thống kê của WHO cho thấy, khoảng 99,7% trường hợp ung thư cổ tử cung đều có sự hiện diện của virus HPV (Human Papilloma Virus). Do đó, virus HPV được coi là yếu tố nguy cơ cao nhất gây ra bệnh lý này ở nữ giới.
Virus HPV là loại virus có hơn 140 týp với khoảng 15 týp được xếp vào nhóm nguy cơ cao dẫn đến ung thư cổ tử cung, phổ biến nhất là các týp 16 và 18 (nguyên nhân của hơn 70% trường hợp mắc bệnh ở nữ giới), tiếp đến là týp 31 và 45.
Theo bác sĩ Hiền Lê, virus HPV chủ yếu lây nhiễm qua đường tình dục, một số ít trường hợp người bệnh không quan hệ tình dục, chỉ tiếp xúc ngoài da nhưng vẫn có nguy cơ bị lây nhiễm. Mặc dù quá trình tiến triển đến ung thư cổ tử cung thường không có triệu chứng rõ ràng, diễn tiến chậm, kéo dài khoảng 10-15 năm nhưng một số quốc gia đã ghi nhận căn bệnh này có xu hướng trẻ hóa, đặc biệt ở những quốc gia có đời sống quan hệ tình dục sớm.
Một số yếu tố làm khả năng thay đổi từ tế bào lành tính sang tế bào ung thư, tăng nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung ở nữ giới gồm có nhiều bạn tình, quan hệ tình dục sớm, mang thai quá sớm hoặc mang thai nhiều lần, mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, hệ miễn dịch suy yếu, hút thuốc lá.
Dấu hiệu
Bác sĩ Hiền Lê cho biết, các triệu chứng ban đầu của ung thư cổ tử cung không rõ ràng, tiến triển thầm lặng, người bệnh khó nhận biết. Khi các triệu chứng xuất hiện rõ ràng hơn có thể tế bào ung thư đã di căn lan rộng. Các can thiệp điều trị lúc này vẫn có thể phát huy được hiệu quả, nhưng khá phức tạp và tốn nhiều chi phí. Trong trường hợp xấu nhất, phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ cắt bỏ toàn bộ tử cung, buồng trứng, các hạch bạch huyết lân cận, ảnh hưởng đến thiên chức làm mẹ.
Một số dấu hiệu giúp nhận biết ung thư cổ tử cung gồm: đau rát vùng chậu hoặc đau khi quan hệ tình dục; chảy máu âm đạo bất thường, nhất là sau khi quan hệ tình dục, giữa các kỳ kinh nguyệt, sau mãn kinh hoặc sau khi khám phụ khoa; dịch tiết âm đạo bất thường, có thể tiết nhiều hơn, có màu xám đục và có mùi hôi.
Các giai đoạn của ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung thông thường phát triển qua các giai đoạn:
- Giai đoạn 0: Giai đoạn này chưa có tế bào ung thư ở cổ tử cung, bắt đầu xuất hiện các tế bào bất thường và có thể phát triển thành tế bào ung thư trong tương lai. Do đó, giai đoạn này được gọi là tiền ung thư hoặc ung thư biểu mô tại chỗ.
- Giai đoạn một: Ung thư chỉ mới xảy ra ở bên trong cổ tử cung.
- Giai đoạn hai: Ung thư đã bắt đầu lan ra bên ngoài cổ tử cung, xâm lấn vào các mô xung quanh nhưng chưa đến các mô lót trong khung chậu hoặc phần dưới của âm đạo.
- Giai đoạn ba: Các tế bào ung thư đã xâm lấn vào phần dưới của âm đạo và các mô lót trong khung chậu.
- Giai đoạn bốn: Ung thư di căn đến các cơ quan khác trong cơ thể, như: ruột, bàng quang, phổi...
Ung thư cổ tử cung nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể tiến triển xấu, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm, đe dọa sức khỏe và tính mạng của người bệnh. Các biến chứng nguy hiểm như vô sinh, ảnh hưởng tâm lý, suy thận...
"Ung thư cổ tử cung nếu được phát hiện sớm, ngay từ giai đoạn tiền ung thư thì tỷ lệ chữa khỏi có thể lên đến hơn 90%. Ở giai đoạn một, tỷ lệ điều trị thành công vào khoảng 85-90% và giảm dần ở các giai đoạn sau. Đến giai đoạn hai giảm còn 50-75%, giai đoạn ba là 25-40% và ở giai đoạn bốn chỉ còn 15%...", bác sĩ Hiền Lê chia sẻ thêm.
Chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa
Thông qua quá trình khám lâm sàng, hỏi bệnh sử, nếu nghi ngờ người bệnh có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung, bác sĩ có thể chỉ định thực hiện một số xét nghiệm cần thiết như soi cổ tử cung, sinh thiết cổ tử cung, các xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh bổ sung.
Bác sĩ Hiền Lê chia sẻ, phương pháp điều trị trong ung thư cổ tử cung thường là đa mô thức, tức là gồm nhiều phác đồ điều trị khác nhau, chứ không phải ung thư là mổ như nhiều bệnh nhân vẫn đang lầm tưởng. Tùy theo từng giai đoạn bệnh mà sẽ có phác đồ điều trị khác nhau, có thể là phẫu thuật đơn thuần, có thể là xạ trị, cũng có thể là kết hợp giữa phẫu thuật, hóa trị, xạ trị.
Theo bác sĩ Hiền Lê, tiêm vaccine phòng virus HPV được xem là biện pháp phòng ngừa ung thư cổ tử cung đơn giản mà hữu hiệu để giảm nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung ở nữ giới. Vaccine còn giúp phòng ngừa mụn cóc ở cơ quan sinh dục và các bệnh lý ung thư cơ quan sinh dục khác như âm đạo, dương vật, âm hộ, hậu môn...Chị em phụ nữ xây dựng đời sống lành mạnh, giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm virus HPV - yếu tố nguy cơ nhất dẫn đến ung thư cổ tử cung.
Theo bác sĩ Hiền Lê, nếu như trước đây, việc phát hiện các tế bào ung thư đòi hỏi phải thực hiện nhiều quá trình phức tạp thì hiện nay với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ đã giúp việc tầm soát bệnh trở nên dễ dàng hơn. Các phương pháp tầm soát ung thư cổ tử cung như xét nghiệm tế bào Pap smear, xét nghiệm Thinprep, xét nghiệm virus HPV. Do đó, phụ nữ đã quan hệ tình dục nên chủ động tầm soát ung thư cổ tử cung để phát hiện sớm và điều trị kịp thời, giảm di chứng về sức khỏe và cả tinh thần.
Thúy Nguyễn