Theo số liệu thống kê của Globocan 2020, ung thư vú là loại ung thư phổ biến thứ 3 tại Việt Nam, sau ung thư phổi và ung thư gan.
Bệnh gồm 4 giai đoạn chính và tùy mỗi giai đoạn mà tiên lượng sống của bệnh nhân sẽ khác nhau. Tiên lượng này thường được xác định dựa trên tỷ lệ sống sót sau 5 năm phát hiện bệnh.
Viện Nghiên cứu Ung thư Anh đã tiến hành thống kê tỷ lệ sống sót sau 5 năm của 210.338 phụ nữ mắc ung thư vú được chẩn đoán trong năm 2013-2017 và được theo dõi đến năm 2018 tại quốc gia này. Nhìn chung, khoảng 95% phụ nữ mắc ung thư vú ở Anh sống được hơn một năm, 85% sống được hơn 5 năm và 75% sống được hơn 10 năm sau khi chẩn đoán bệnh. Nếu xét về giai đoạn bệnh, khả năng sống của bệnh nhân ung thư vú có xu hướng giảm dần khi bệnh càng tiến triển.
Giai đoạn một
Ở giai đoạn một, khối u ung thư có kích thước nhỏ hơn 2 cm và thường nằm khu trú trong vú. Theo đó, nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn này, bệnh nhân có tiên lượng tốt với tỷ lệ sống sót sau 5 năm là khoảng 98%.
Giai đoạn 2
Khối u ở giai đoạn này đã phát triển lớn hơn giai đoạn một (kích thước khoảng 2-5 cm) và đã bắt đầu lây lan đến các hạch bạch huyết dưới cánh tay cùng bên với vú bị bệnh. Lúc này, khoảng 90% bệnh nhân có thể sống thêm ít nhất 5 năm sau khi chẩn đoán bệnh.
Giai đoạn 3
Giai đoạn 3 còn gọi là giai đoạn ung thư vú tiến triển cục bộ. Khối u giai đoạn 3 có kích thước lớn hơn 5 cm và đã lan rộng ra thành ngực, da vú hoặc các hạch bạch huyết. Ở giai đoạn này, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh nhân là hơn 70%.
Giai đoạn 4
Đây là giai đoạn cuối cùng của ung thư vú. Lúc này, tế bào ung thư đã di căn đến một hoặc nhiều cơ quan xa trong cơ thể, phổ biến nhất là xương, phổi và gan. Nhìn chung, bệnh ở giai đoạn 4 không có khả năng chữa khỏi hoàn toàn và tiên lượng sống của bệnh nhân cũng thường không cao. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm vào khoảng 25%.
Ngoài thống kê của Viện Nghiên cứu Ung thư Anh, cơ sở dữ liệu SEER (Mỹ) cũng theo dõi tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm ở những bệnh nhân ung thư vú tại Mỹ. Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu này không phân loại ung thư vú theo hệ thống TNM (của Hiệp hội quốc tế chống Ung thư - International Union Against Cancer) mà chia bệnh thành 3 giai đoạn dựa trên mức độ lan rộng của khối u, bao gồm giai đoạn khu trú, khu vực và di căn xa.
Theo đó, tiên lượng sống của bệnh nhân như sau:
- Giai đoạn khu trú (khối u còn nằm bên trong vú): tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 99%.
- Giai đoạn khu vực (tế bào ung thư đã lây lan đến các cấu trúc hoặc hạch bạch huyết lân cận): tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 86%.
- Giai đoạn di căn xa (khối u đã di căn đến các cơ quan khác trên cơ thể): tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 28%.
Bệnh nhân ung thư vú nên lưu ý rằng tiên lượng chỉ là những con số ước tính. Hiện nay, triển vọng sống của bệnh nhân có thể tốt hơn nhờ vào các phương pháp điều trị tiên tiến.
Ngoài ra, bên cạnh giai đoạn bệnh, còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng sống của người mắc ung thư vú như phân loại, sự hiện diện của các thụ thể hormone và HER2 trên tế bào ung thư, sức khỏe tổng thể và mức độ đáp ứng của bệnh nhân đối với phương pháp điều trị. Vì vậy, người bệnh nên giữ tâm lý thoải mái và tuân theo phác đồ điều trị của bác sĩ để kéo dài tuổi thọ cho bản thân.
Phương Quỳnh (Theo American center Society, Cancer Research UK)