BS.CKII Võ Thị Kim Thanh, khoa Thận - Lọc máu, Trung tâm Tiết niệu - Thận học - Nam khoa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, cho biết thiếu máu là khi lượng hồng cầu trong máu giảm xuống dưới 13 g/dL với nam giới và dưới 12 g/dL ở phụ nữ. Tình trạng này xảy ra khi độ lọc cầu thận (eGFR) giảm, dưới 60 mL/phút/1,73 m2 da.
Theo bác sĩ Thanh, khoảng 57% người bệnh thận mạn giai đoạn 3-5 bị thiếu máu. Có 4 nguyên nhân bao gồm:
Thiếu erythropoietin (EPO): Đây là cơ chế thiếu máu thường gặp nhất trong bệnh thận mạn. Erythropoietin là enzyme (chất xúc tác sinh học) được sản xuất chủ yếu tại thận, có vai trò kích thích tạo ra hồng cầu.
Ở người bệnh suy thận, khả năng sản xuất EPO suy giảm do độ lọc cầu thận kém hiệu quả, thậm chí mất hoàn toàn khi độ lọc cầu thận dưới 30-40 mL/phút/1,73 m2 da.
Thiếu sắt: Khi chức năng thận suy giảm, cùng với dùng thuốc và ăn uống tiết chế, người bệnh bị thiếu sắt, dẫn đến giảm lượng sắt cung cấp cho tủy xương, gồm thiếu sắt tuyệt đối và tương đối. Thiếu sắt tuyệt đối do một số nguyên nhân như mất máu, loạn sản mạch máu ruột, chảy máu do nồng độ urê trong máu cao. Người bệnh chạy thận nhân tạo mất sắt trung bình 1-3 g/năm.
Thiếu sắt tương đối (thiếu sắt chức năng) xảy ra khi cơ thể không thể huy động được đủ sắt từ nguồn dự trữ cung cấp cho quá trình sản sinh hồng cầu.
Tan máu: Xảy ra khi tốc độ phá hủy tế bào hồng cầu nhanh hơn khả năng sản xuất tế bào mới. Hồng cầu nhược sắc, ít sắt, màng tế bào hồng cầu giảm khả năng biến dạng, sớm bị vỡ hay kháng thể tiêu diệt.
Thiếu dinh dưỡng: Đây là một trong những yếu tố dễ bị bỏ qua. Vitamin nhóm B (B6, B9, B12) là các đồng yếu tố thiết yếu trong việc tạo ra hồng cầu. L-carnitine (chất dinh dưỡng do cơ thể tổng hợp) giảm khi mức lọc cầu thận giảm.
Bổ sung L-cartinine có thể chống lại sự chết tế bào. Giảm nồng độ phốt phát trong máu làm cạn kiệt ATP (nguồn năng lượng cho các hoạt động của tế bào trong cơ thể), giảm biến dạng màng tế bào hồng cầu dẫn tới lão hóa sớm hoặc thiếu máu tan máu cấp (tế bào máu mới được tạo ra không thể bù đắp lượng đã mất đi).
Triệu chứng thiếu máu ở người bệnh suy thận mạn nhìn chung tương đồng với thiếu máu ở người bình thường, bao gồm mệt mỏi, yếu, khó thở, tức ngực, nhức đầu, da và kết mạc nhợt nhạt, tim đập nhanh, suy tim.

Mệt mỏi, nhức đầu là những triệu chứng thường gặp do thiếu máu ở người bệnh thận mạn tính. Ảnh minh họa: Freepik
Theo bác sĩ Thanh, có ba cách điều trị thiếu máu ở người bệnh thận mạn.
Kích thích sản xuất hồng cầu (ESA): Được áp dụng ở người bệnh thận mạn có nồng độ hồng cầu trong máu 90-10 g/L, mục tiêu đưa chỉ số này về mức 115 g/L. Trước đó, bác sĩ chẩn đoán và điều trị các nguyên nhân gây thiếu máu khác (nếu có), căn cứ theo tình trạng sức khỏe của người bệnh để đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Bác sĩ ngừng điều trị khi nồng độ hồng cầu trong máu vượt quá 130 g/L.
Bổ sung sắt: Đây là yếu tố quan trọng trong điều trị thiếu máu ở bệnh thận mạn. Bên cạnh hỗ trợ tạo máu, bổ sung sắt còn cải thiện chức năng nhận thức, sức khỏe hệ miễn dịch, điều hòa nhiệt độ cơ thể, khả năng vận động của người bệnh. Người bệnh có thể bổ sung sắt qua thuốc uống và truyền tĩnh mạch, tùy thể trạng theo chỉ định của bác sĩ.
Truyền khối hồng cầu: Biện pháp này ít được áp dụng, trừ trường hợp liệu pháp kích thích sản xuất hồng cầu không hiệu quả hoặc tiềm ẩn nhiều nguy cơ với người bệnh. Người bệnh suy thận mạn đang chờ ghép thận không được chỉ định phương pháp này.
Bác sĩ Thanh khuyến cáo người bệnh thận mạn giai đoạn 3-5 cần đánh giá thiếu máu định kỳ ít nhất 1-2 lần mỗi năm. Nếu người bệnh đang chạy thận nhân tạo hay lọc màng bụng, cần đánh giá đều đặn mỗi 3 tháng.
Trường hợp đang điều trị thiếu máu, người bệnh thận mạn cần kiểm tra nồng độ hồng cầu trong máu mỗi tháng hoặc nửa tháng một lần nhằm đánh giá hiệu quả điều trị, kịp thời điều chỉnh nồng đồng hồng cầu không vượt quá 13 g/dL, nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch.
Điều trị thiếu máu hiệu quả cũng là cách kiểm soát bệnh thận mạn. Không chỉ người bệnh thận mạn mà người có tiền sử bản thân hoặc người trong gia đình bị tiểu đường, cao huyết áp nên chủ động khám sức khỏe định kỳ để theo dõi, đánh giá nguy cơ tiến triển bệnh.
Người bệnh cần dùng thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sĩ. Ngoài ra, cần giảm đạm, giảm muối, đường trong khẩu phần ăn; bổ sung đủ nước (nhiều hơn lượng nước tiểu trong ngày 500 ml); thường xuyên tập thể dục vừa sức; bỏ thuốc lá, rượu bia.
Thắng Vũ