ThS.BS Nguyễn Khiêm Thao - Phó khoa Điện sinh lý và Loạn nhịp tim, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, cho biết, một số rối loạn nhịp có thể làm suy giảm chức năng tim theo thời gian, hoặc gây ra các triệu chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng người bệnh. Các dạng rối loạn nhịp nhanh phổ biến bao gồm:
Nhịp nhanh kịch phát trên thất
Nhịp nhanh kịch phát trên thất là dạng rối loạn nhịp tim nhanh thường gặp nhất, xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Nguồn gốc của nhịp nhanh xuất phát từ ổ loạn nhịp trên nhĩ, đường dẫn truyền phụ nhĩ - thất hoặc từ vùng nút nhĩ thất.
Nhịp nhanh có thể xuất hiện đột ngột, ngay cả khi bệnh nhân đang nghỉ ngơi hoặc ngủ. Tần số tim trong cơn nhịp nhanh dao động từ 150-210 lần mỗi phút và nhịp tim thường đều. Trong cơn nhịp tim nhanh, bệnh nhân thường chỉ có triệu chứng nhẹ như hồi hộp, khó chịu ở ngực, cảm giác thở mệt, hụt hơi, yếu sức. Thế nhưng, một số trường hợp khác lại có biểu hiện nặng hơn như choáng váng, chóng mặt, tụt huyết áp, mệt đừ.
Thông thường, nhịp nhanh kịch phát trên thất không ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe chung, vì ít xuất hiện, tự hết trong vài giờ. Song trong một số trường hợp, nhịp nhanh lại xuất hiện thường xuyên, kéo dài hơn gây triệu chứng nên cần được điều trị chuyên khoa loạn nhịp tim. Phương pháp điều trị tùy thuộc vào loại nhịp nhanh gì, mức độ triệu chứng, tần suất xuất hiện nhịp nhanh, tình trạng sức khỏe chung của người bệnh, mong muốn điều trị triệt căn (can thiệp khảo sát và triệt phá loạn nhịp) hoặc dùng thuốc kiểm soát giảm bớt cơn nhịp nhanh.
Cuồng nhĩ
Đây là một dạng rối loạn nhịp nhanh ở tâm nhĩ của tim, hình thành do một hoặc những vòng dẫn truyền vào lại. Trong cuồng nhĩ, tâm nhĩ co thắt nhanh, đều với tần số khoảng 240 - 340 lần/phút. Tâm nhĩ co thắt rất nhanh nhưng xung động khi dẫn truyền qua nút nhĩ thất đã giảm bớt trước khi truyền xuống hai tâm thất ở dưới. Đây là đặc tính sinh lý của nút nhĩ thất để bảo vệ tâm thất bớt bị ảnh hưởng bởi rối loạn nhịp ở tâm nhĩ.
Triệu chứng của cuồng nhĩ tương tự như các rối loạn nhịp nhanh trên thất khác: hồi hộp, ran ngực, khó thở, yếu sức, chóng mặt. Thực tế, ít khi cuồng nhĩ khiến bệnh nhân có biểu hiện ngất hoặc gần ngất. Tuy nhiên trong một số trường hợp, bệnh nhân lại có triệu chứng của đột quỵ (yếu liệt tay, chân, nói đớ, mất tri giác) do thuyên tắc huyết khối. Những bệnh nhân này sau khi trải qua biến cố đột quỵ mới được khám tầm soát nguyên nhân, phát hiện cuồng nhĩ, rung nhĩ.
Một số yếu tố tăng nguy cơ bị cuồng nhĩ là: người cao tuổi, béo phì, nghiện rượu hoặc người mắc bệnh van tim, tim bẩm sinh, từng thực hiện phẫu thuật tim.
Có hai phương pháp điều trị cuồng nhĩ: dùng thuốc để kiểm soát không cho tần số thất đập quá nhanh, hoặc can thiệp khảo sát triệt phá các vòng vào lại ở tâm nhĩ. Tùy tình trạng bệnh nhân, bác sĩ chuyên khoa loạn nhịp sẽ đưa ra hướng điều trị phù hợp.
Ngoài ra, khi bệnh nhân bị cuồng nhĩ sẽ dẫn đến nguy cơ hình thành huyết khối trong tim, là nguyên nhân của đột quỵ do huyết khối di chuyển gây tắc nghẽn mạch máu não. Do đó, bác sĩ sẽ đánh giá nguy cơ huyết khối, điều trị kháng đông khi cần.
Rung nhĩ
Theo bác sĩ Khiêm Thao, rung nhĩ là một trong những rối loạn nhịp phức tạp nhất ở tầng nhĩ của tim. Trong rung nhĩ, tâm nhĩ được kích hoạt không đồng bộ ở nhiều vùng khác nhau với những xung động nhanh, không đều và lan hỗn loạn trong tâm nhĩ. Kết quả tạo ra nhịp tim nhanh và hoàn toàn không đều.
Rung nhĩ có thể xuất hiện thành từng cơn thoáng qua, không gây triệu chứng rõ ràng. Nhưng khi bệnh tiến triển, rung nhĩ sẽ kéo dài liên tục, trở nên dai dẳng làm suy giảm chức năng tim theo thời gian. Các triệu chứng của rung nhĩ cũng tương tự như cuồng nhĩ.
Các yếu tố, nguyên nhân góp phần tăng nguy cơ bị rung nhĩ gồm: tăng huyết áp, bệnh mạch vành, bệnh van tim, bệnh tim bẩm sinh, bệnh lý tuyến giáp, rối loạn chuyển hóa (đái tháo đường), hội chứng suy nút xoang, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hội chứng ngưng thở khi ngủ, sau phẫu thuật tim, tuổi cao, béo phì...
Cũng như cuồng nhĩ, rung nhĩ có nguy cơ tạo ra huyết khối trong tim, dẫn đến đột quỵ do huyết khối gây tắc nghẽn mạch máu não. Vì vậy, bác sĩ cũng cần đánh giá nguy cơ và điều trị kháng đông (nếu cần) để phòng ngừa đột quỵ. Đây là một trong những bước quan trọng bên cạnh việc điều trị giảm bớt cơn rung nhĩ, kiểm soát tần số thất đập không quá nhanh trong rung nhĩ.
Việc điều trị rung nhĩ gồm hai hướng chính là kiểm soát nhịp và kiểm soát tần số tim. Ở hướng kiểm soát nhịp, bác sĩ sẽ điều trị duy trì nhịp bình thường (nhịp xoang) cho bệnh nhân bằng thuốc hoặc can thiệp khảo sát và triệt phá rung nhĩ, hạn chế tối đa việc tái phát cơn rung nhĩ. Ngược lại ở hướng kiểm soát tần số, bác sĩ tập trung chủ yếu vào việc giữ tần số tâm thất đập không quá nhanh bất kể khi rung nhĩ tái phát.
Theo bác sĩ Khiêm Thao, việc lựa chọn hướng điều trị cho rung nhĩ tùy thuộc vào nhiều yếu tố và từng bệnh nhân cụ thể, không có công thức chung. Do vậy khi phát hiện rung nhĩ, bệnh nhân cần khám chuyên khoa loạn nhịp tim để có hướng điều trị phù hợp, giảm thiểu tối đa nguy cơ bệnh tiến triển nặng hơn.
Nhịp nhanh thất
Đây là một dạng rối loạn nhịp nhanh có nguồn gốc loạn nhịp xuất phát ở tâm thất. Nhìn chung, nhịp nhanh thất là loạn nhịp cần phải được lưu ý đặc biệt, ngay cả khi ở lần đầu phát hiện. Bởi lẽ, bản thân nhịp nhanh thất có nguy cơ, khả năng gây tổn hại sức khỏe nhiều hơn hẳn so với các nhịp nhanh kịch phát trên thất thông thường. Ngoài ra, nhịp nhanh thất cũng là dấu hiệu của một số bệnh lý tim mạch nguy hiểm khác mà bệnh nhân chưa được khám, phát hiện. Do tính chất phức tạp, nguy hiểm của nhịp nhanh thất, nên khi có dấu hiệu bất thường, người bệnh cần khám chuyên khoa loạn nhịp ngay để được xử trí phòng biến chứng nguy hiểm.
Nhịp nhanh thất có thể xuất hiện thoáng qua, chưa đủ biểu hiện rõ ràng, hoặc bệnh nhân chỉ có triệu chứng mơ hồ như cảm giác nhẹ người, đánh trống ngực, không khỏe. Tuy nhiên bác sĩ Khiêm Thao nhấn mạnh, khi tình trạng nặng lên, hầu hết bệnh nhân sẽ có triệu chứng từ nhẹ đến nặng như hồi hộp, chóng mặt, ran nặng ngực, khó thở, hoa mắt, tụt huyết áp, gần ngất và ngất.
Nhịp nhanh thất có thể do các nguyên nhân như: Bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ (bệnh mạch vành), bệnh cơ tim (bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim giãn nở), bệnh loạn nhịp do di truyền (hội chứng QT dài, nhịp nhanh thất liên quan catecholamine), rối loạn điện giải, tác dụng phụ của thuốc điều trị, các thuốc gây nghiện (cocaine hoặc methamphetamine), nhịp nhanh thất vô căn...
"Nhịp nhanh thất cần điều trị và theo dõi đáp ứng điều trị theo chuyên khoa một cách cẩn thận, đặc biệt khi bệnh nhân có triệu chứng nặng, tái phát. Tầm soát và điều chỉnh các nguyên nhân nền (nếu có) gây ra nhịp nhanh thất cũng đóng vai trò quan trọng. Người bệnh có thể cân nhắc việc điều trị thuốc hoặc can thiệp triệt đốt nhịp nhanh thất tùy vào mức độ nguy hiểm của nhịp nhanh thất, mức độ nặng của triệu chứng đi kèm, tổng trạng bệnh nhân, tính chất và nguyên nhân nền gây nhịp nhanh thất", bác sĩ Khiêm Thao cho biết.
Trong nhiều trường hợp, lựa chọn can thiệp triệt đốt nhịp nhanh thất được ưu tiên và đạt hiệu quả hơn so với việc dùng thuốc vốn chỉ làm giảm số cơn nhịp nhanh thất. Một số trường hợp nhịp nhanh thất ác tính, kháng trị, tái phát, tiến triển xấu hơn sẽ đòi hỏi bác sĩ phải làm thêm phẫu thuật đặt máy phá rung tim cấy dưới da để tính mạng bệnh nhân không bị đe dọa khi vào cơn nhịp nhanh thất nguy hiểm.
Rung thất
Theo bác sĩ Khiêm Thao, rung thất là loại loạn nhịp nguy hiểm trong các rối loạn nhịp nhanh. Bệnh có thể đe dọa trực tiếp, tức thời đến tính mạng người bệnh nên cần được cấp cứu ngay. Trong rung thất, các tâm thất của tim co bóp rất nhanh, hỗn loạn, mất đồng bộ hoàn toàn, khả năng bơm máu và duy trì tuần hoàn của tim không còn. Vì thế trong cơn rung thất, nếu bệnh nhân không được cứu chữa kịp thời thì khả năng tử vong rất cao, hầu như tử vong, hoặc nếu cứu chữa nhưng chậm sẽ dẫn đến tổn thương não vĩnh viễn.
Triệu chứng của cơn rung thất tiến triển nhanh theo thời gian từ khi bệnh khởi phát. Bệnh nhân có cơn rung thất thoáng qua vài giây thường bị choáng váng, hoa mắt, tối sầm mắt, cảm giác tay chân nhẹ hẫng. Nếu cơn rung thất kéo dài gần 10 giây, bệnh nhân sẽ có cơn thoáng mất ý thức. Khi cơn rung thất kéo dài hơn, người bệnh sẽ ngất và các cơ quan nhạy cảm với thiếu máu nuôi như não bắt đầu bị tổn thương. Lúc này, nếu bệnh nhân không được cấp cứu, cơn rung thất tiếp tục duy trì thì khả năng tử vong rất cao.
Các yếu tố nguy cơ dẫn đến rung thất: nhồi máu cơ tim cấp, bệnh cơ tim, bệnh loạn nhịp thất nặng do di truyền (hội chứng Brugada, hội chứng QT dài), tổn thương hoặc viêm cơ tim cấp, rối loạn điện giải nặng, dùng thuốc quá liều (đặc biệt là cocaine và methamphetamine), rung thất vô căn.
Việc điều trị rung thất là một cấp cứu nội khoa. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng tiến hành tìm, điều chỉnh những yếu tố nguyên nhân nền thì mới giúp bệnh nhân ổn định, ngưng tái phát rung thất. Trừ rung thất do các nguyên nhân cấp tính, có thể được điều trị hồi phục hoàn toàn, việc phòng ngừa đột tử do tái phát rung thất luôn được đặt lên hàng đầu. Ở khía cạnh này, việc đặt máy phá rung tim là hướng điều trị duy nhất để phòng ngừa đột tử cho bệnh nhân. Đây không phải biện pháp điều trị giảm bớt, hết rung thất mà là biện pháp cắt cơn rung thất để bảo vệ tính mạng bệnh nhân.
Rối loạn nhịp nhanh cần được điều trị càng sớm để phòng các biến chứng như suy tim, đột quỵ, nhồi máu cơ tim... Do đó, khi có bất thường bạn cần đến cơ sở y tế chuyên khoa để được bác sĩ trực tiếp thăm khám, xét nghiệm máu, đo điện tim, siêu âm tim để tìm nguyên nhân chính xác nhất, có hướng điều trị phù hợp, hiệu quả.
Hạ Vũ