Ông Henry bị tăng huyết áp, rung nhĩ. Tháng 1, ông đau vùng ngực trái lan xuống hạ sườn trái, nghĩ thiếu máu cơ tim, đến bệnh viện kiểm tra.
Ngày 26/2, TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Tim mạch - Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, cho biết khoang màng phổi trái của người bệnh có khối u lớn, kích thước 20x15x10 cm, nặng khoảng 2 kg. U xuất phát từ màng phổi trái, dính chặt vào thành ngực, xâm lấn sườn, cơ hoành kế cận. Khối u chèn làm xẹp phổi, tràn dịch nhiều ở màng phổi trái.
Bệnh nhân được sinh thiết u xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CT, phát hiện tế bào khổng lồ, gây ra những cơn đau vùng hạ sườn.
ThS.BS.CKI Phạm Ngọc Minh Thủy, khoa Ngoại Tim mạch - Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch, cho biết phải phẫu thuật u tế bào khổng lồ để giải áp (giải phóng áp lực), giảm triệu chứng, đồng thời khảo sát giải phẫu bệnh để tránh bỏ sót ác tính.
Ê kíp mổ mở dưới sự hỗ trợ của camera nội soi. Bác sĩ mở đường mổ nhỏ (khoảng 7 cm) ngay dưới ngực trái, cộng thêm một lỗ nhỏ (1 cm) để đưa ống soi camera vào.
Sau khi u được tách khỏi thành ngực thì đè xuống tim, có nguy cơ gây rối loạn huyết động và làm tụt huyết áp bệnh nhân. Theo bác sĩ Dũng, khó khăn của ca mổ là duy trì huyết áp ổn định cho người bệnh. Ông Henry đang dùng thuốc kháng đông. Khối u lớn, dính nhiều xung quanh nên nguy cơ cao chảy máu nhiều. Để khắc phục, ê kíp theo dõi sát chỉ số huyết áp và lượng máu mất trong lúc mổ, đồng thời truyền máu hỗ trợ.
Ca phẫu thuật thành công sau 180 phút. Bệnh nhân được theo dõi tại khoa Hồi sức tích cực (ICU) một ngày nhằm đảm bảo nhịp tim, huyết áp, SpO2; xuất viện sau ba ngày và tái khám định kỳ.
Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ cho thấy đây là u tế bào khổng lồ của mô mềm, thuộc nhóm trung gian chưa xếp loại giữa lành tính và ác tính.
ThS.BS.CKI Minh Thủy cho biết khối u tế bào khổng lồ (GCT) của mô mềm (GCT-ST) là một khối u mô mềm nguyên phát hiếm gặp, bất thường, chiếm 5% tổng số khối u xương nguyên phát. Hiện GCT-ST được đưa vào nhóm khối u xơ hóa tế bào ác tính trung gian (đường biên). Triệu chứng phổ biến nhất là u không đau, phát triển chậm ở vị trí nông. Chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ cho thấy một khối đặc, không đồng nhất, thường xuyên xuất huyết.
Bệnh có thể gặp ở mọi độ tuổi, tỷ lệ cao ở nhóm 20-40 tuổi. Khối u có khả năng ác tính thấp và thường ảnh hưởng đến chi dưới, thân và chi trên. Hiếm khi có khối u phát sinh ở ngực (1% trong tổng số các trường hợp u tế bào khổng lồ) và nếu có thì thường là từ xương sườn. Nguồn gốc của u tế bào khổng lồ từ màng phổi và thành ngực là rất hiếm gặp.
Sau mổ, tỷ lệ tái phát tại chỗ của u tế bào khổng lồ là 10-15%. Do đó, bệnh nhân cần theo dõi chặt chẽ, tái khám theo chỉ định của bác sĩ.
Thu Hà
* Tên người bệnh đã được thay đổi