Bác sĩ Lê Trí Chinh, Trưởng khoa Ngoại phụ khoa, Bệnh viện K, cho biết ung thư buồng trứng là một trong những ung thư đường sinh dục thường gặp nhất ở phụ nữ, đứng thứ hai sau ung thư cổ tử cung cả về số ca bệnh lẫn tử vong cao. Ở Việt Nam, mỗi năm có khoảng 1.200 phụ nữ được chẩn đoán ung thư buồng trứng, hầu hết tuổi mãn kinh, nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn.
Ung thư buồng trứng là khi một hoặc cả hai buồng trứng xuất hiện các tế bào bất thường, phát triển không tuân theo nhu cầu và kiểm soát của cơ thể, tạo thành các khối u ác tính. Các tế bào ung thư này còn có thể xâm lấn và phá hủy các mô, cơ quan xung quanh, di căn tới các cơ quan ở xa, gây ung thư thứ phát.
Các thể ung thư buồng trứng bao gồm ung thư biểu mô buồng trứng là loại ung thư hay gặp nhất hiện nay, ung thư tế bào mầm, ung thư mô đệm.
Hiện nay vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây bệnh. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh bao gồm: phụ nữ qua thời kỳ mãn kinh hoặc sinh đẻ ít; kinh nguyệt không đều; dùng thuốc kích thích rụng trứng; dùng liệu pháp thay thế hormone hậu mãn kinh; người bị ung thư vú. Bên cạnh đó là yếu tố di truyền, những phụ nữ có mẹ hoặc chị em gái bị ung thư buồng trứng, ung thư vú hay ung thư đại trực tràng thì nguy cơ ung thư buồng trứng tăng gấp 2-4 lần.
Biểu hiện ban đầu của ung thư buồng trứng gồm: cảm giác khó chịu, đau vùng bụng dưới; rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy hay táo bón; thường xuyên đi tiểu do tăng áp lực đè ép vào bàng quang; ăn kém, cảm giác đầy bụng kể cả sau một bữa ăn nhẹ; tăng hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân; chảy máu âm đạo bất thường sau mãn kinh, thay đổi bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt; đau khi quan hệ tình dục.
Trong điều trị, đối với bệnh nhân ung thư buồng trứng, đặc biệt là giai đoạn đầu, phẫu thuật luôn là liệu pháp điều trị được lựa chọn hàng đầu. Khi thực hiện phẫu thuật, bác sĩ sẽ cố gắng loại bỏ tối đa các tế bào ung thư, lượng tế bào ung thư còn sót lại có thể được điều trị bằng hóa trị hay xạ trị. Thông thường, bệnh nhân sẽ phải cắt buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, cổ tử cung, cắt mạc nối, và các hạch ở ổ bụng. Tuy nhiên nếu bệnh nhân muốn có con, bác sĩ sẽ cố gắng bảo tồn các bộ phận chưa bị tế bào ung thư xâm lấn.
Hóa trị liệu là phương pháp dùng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư, thường được chỉ định cho bệnh nhân ung thư buồng trứng ở giai đoạn tiến triển hoặc giúp loại bỏ các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật. Thuốc có thể được đưa vào cơ thể thông qua tiêm tĩnh mạch, uống hoặc đưa trực tiếp vào ổ bụng nhờ một ống thông. Sau khi sử dụng, bác sĩ có thể cho bệnh nhân kiểm tra mẫu mô và dịch để đánh giá đáp ứng với thuốc.
Các tác dụng phụ của phương pháp hóa trị có thể bao gồm: nôn, buồn nôn, rụng tóc, chán ăn, sạm da, mệt mỏi... Một số thuốc điều trị ung thư buồng trứng có thể gây tổn thương đến thận, do đó bệnh nhân cần truyền nhiều dịch để bảo vệ thận.
Xạ trị là dùng tia phóng xạ có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia phóng xạ có thể xuất phát từ một máy bên ngoài cơ thể hoặc dung dịch phóng xạ được đưa vào ổ bụng bệnh nhân. Tia xạ có thể ảnh hưởng đến cả tế bào ung thư và tế bào bình thường. Phương pháp này có thể dẫn đến một số tác dụng phụ như: chán ăn, buồn nôn, nôn, mệt mỏi, tiêu chảy... Tác dụng phụ thường phụ thuộc vào liều lượng và vùng cơ thể bị chiếu xạ.
Ung thư buồng trứng là căn bệnh nguy hiểm, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong. Bác sĩ khuyến cáo để phát hiện và có hướng điều trị kịp thời, khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần.