Ông Lê Văn, 73 tuổi, từng phải điều trị bệnh tim, đã đặt một stent (ống đỡ) ở động mạch vành, đồng thời có bệnh nền cao huyết áp, run tay do Parkinson. Tháng 2, ông đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, Hà Nội để khám do bị đau thắt ngực trái mỗi lần vận động, cơn đau khiến ông vật vã, toát mồ hôi.
ThS.BS Nguyễn Tuấn Long, khoa Tim mạch, chẩn đoán ông bị đau thắt ngực không ổn định trên stent cũ động mạch vành. Ông từng được đặt stent mạch vành tại bệnh viện khác vào năm 2019 để điều trị tổn thương, song vẫn còn sót tổn thương khác ở mạch vành.
Lúc này, bác sĩ phải xác định chính xác căn nguyên gây đau ngực, có phải do tổn thương lần này hay do nguyên nhân khác, từ đó quyết định vị trí đặt stent đúng, điều trị chính xác. Đồng thời, bác sĩ tránh đặt stent lên những vị trí mạch máu không cần thiết. Do đó, êkip bác sĩ chọn điều trị cho bệnh nhân bằng phương pháp đặt stent động mạch vành dưới sự hỗ trợ của hệ thống cắt lớp vi tính quang học (OCT mạch vành).
Sau can thiệp, tình trạng đau ngực của bệnh nhân được cải thiện ngay. Các xét nghiệm chức năng tim đều ổn định, tổng thời gian nằm viện của bệnh nhân chỉ 2 ngày.
OCT mạch vành được cho là công nghệ vàng trong can thiệp điều trị bệnh tim mạch. Trong quá trình thực hiện, một đầu ghi hình siêu nhỏ được đưa vào lòng mạch vành. Đầu ghi phát ra tia hồng ngoại, ghi nhận tia sáng phản xạ, chuyển đổi thành hình ảnh.
Từ đó, bác sĩ có góc nhìn cận cảnh về các cấu trúc trong lòng mạch, ví dụ cấu trúc các lớp của mạch máu, các tổn thương trên bề mặt của lòng mạch như loét, rách thành mạch, huyết khối, giúp việc điều trị chính xác hơn, hạn chế bỏ qua thương tổn như trường hợp của bệnh nhân Văn. Hơn nữa, việc đo đạc chính xác các kích thước lòng mạch cũng giúp bác sĩ chọn stent có đường kính tối ưu nhất (không thừa hay thiếu), phòng tái hẹp về sau.
Đồng thời, các bác sĩ có thể thấy khoảng cách siêu nhỏ (tính bằng đơn vị angstron) giữa lớp stent mới đặt và lòng mạch vành. Đây là những điểm tiến bộ hơn so với phương pháp chụp và can thiệp mạch vành thông thường phổ biến hiện nay.
OCT mạch vành giúp bệnh nhân có thể giảm thời gian dùng các thuốc kháng tiểu cầu, giảm chi phí điều trị và nguy cơ xuất huyết do sử dụng thuốc kháng tiểu cầu, giảm nguy cơ tắc hoặc tái hẹp stent.
"Bệnh nhân đặt stent mạch vành bắt buộc dùng 2 thuốc kháng tiểu cầu để đảm bảo kết quả điều trị, song thuốc này có thể làm tăng nguy cơ chảy máu. Khi giảm lượng thuốc dùng, người bệnh giảm nguy cơ chảy máu nhưng vẫn được duy trì lượng thuốc đủ để không làm tắc stent. Kỹ thuật mới sẽ giúp giảm thời gian dùng 2 thuốc kháng tiểu cầu đồng thời còn khoảng 3-6 tháng", bác sĩ Long cho biết.
Để vận hành kỹ thuật OCT mạch vành, bệnh viện cần đội ngũ bác sĩ, kỹ thuật viên được đào tạo bài bản, ví dụ bơm thuốc ở mức độ nào là vừa phải, tránh việc quá mạnh có thể gây ra huyết khối do rách mạch máu... Hiện BVĐK Tâm Anh Hà Nội là cơ sở y tế đầu tiên và duy nhất ứng dụng kỹ thuật mới này tại miền Bắc; các bác sĩ trung tâm can thiệp mạch được đào tạo thuần thục tại Singapore.
Bác sĩ Long nhận định, bệnh mạch vành có tỷ lệ mắc tăng nhanh gần đây. Bệnh gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như suy tim, rối loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim, đột tử... nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Việc áp dụng kỹ thuật mới sẽ tăng hiệu quả điều trị, tối ưu kết quả và thời gian điều trị cho người bệnh.
Thanh Ba