Xét nghiệm nước tiểu cho thấy sự hiện diện và nồng độ các chất trong nước tiểu. TS.BSCC Mai Thị Hiền (Phó khoa Tiết niệu - Nam học và Thận học, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội) cho biết, dựa vào kết quả xét nghiệm nước tiểu, bác sĩ có thể phát hiện các dấu hiệu của bệnh thận hoặc tác nhân gây bệnh. Đồng thời, xét nghiệm này còn có giá trị trong việc theo dõi và đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị cũng như tình trạng sức khỏe của người bệnh.
Các chỉ số xét nghiệm nước tiểu bao gồm nồng độ protein, độ pH hay mức độ axit có trong nước tiểu, tế bào hồng cầu... khi có bất thường có thể giúp phát hiện các bệnh lý tại thận như sỏi thận, suy thận, viêm thận...
Sỏi thận
Sỏi thận là bệnh thường gặp nhất của đường tiết niệu. Tại Việt Nam, khoảng 10-14% người có sỏi trong thận. Bệnh thường gặp ở người từ 30 đến 55 tuổi, trong đó nam giới nhiều hơn ở nữ giới. Các loại phổ biến là sỏi canxi, sỏi oxalat và sỏi struvit. Kết quả xét nghiệm nước tiểu giúp bác sĩ đưa ra kết luận về tình trạng bệnh, các giai đoạn và biến chứng của sỏi thận, đặc biệt là nhiễm trùng đường tiết niệu.
Theo Tiến sĩ Hiền, từ mẫu nước tiểu, bác sĩ có thể soi cặn lắng tìm các tinh thể như oxalat, phosphat, canxi... để kết luận loại sỏi nào đang hình thành trong đường tiết niệu. Trường hợp nồng độ pH trong nước tiểu lớn hơn 6,5, người bệnh có thể bị nhiễm trùng đường tiết niệu.
Trường hợp sỏi thận có biến chứng nhiễm trùng, khi xét nghiệm nước tiểu thường tìm thấy nhiều hồng cầu, bạch cầu. Nếu kết quả xét nghiệm nước tiểu phát hiện protein niệu nhiều hơn so với mức bình thường, bác sĩ sẽ phải chẩn đoán thêm các bệnh lý cầu thận.
Viêm cầu thận
Tình trạng viêm xảy ra ở các tiểu cầu thận và mạch máu trong thận được gọi là viêm cầu thận. Bệnh có thể xảy ra ở mọi độ tuổi với nhiều nguyên nhân. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, thậm chí tử vong.
Tiến sĩ Hiền cho biết, nếu xét nghiệm cho thấy protein trong nước tiểu càng cao, tiên lượng càng nặng. Nếu protein trở về âm tính nghĩa là bệnh được phục hồi. Nếu xét nghiệm nước tiểu có dấu hiệu hồng cầu niệu dương tính, nguy cơ bệnh viêm cầu thận vẫn còn tái phát.
Viêm bể thận cấp
Đây là một bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu do vi khuẩn gây ra, có thể chữa khỏi nếu được điều trị sớm. Tuy nhiên, nếu phát hiện và điều trị muộn hoặc điều trị không đúng cách, bệnh dễ tái phát và có thể dẫn đến biến chứng như suy thận, ứ mủ thận, hoại tử núm thận, nhiễm khuẩn huyết,... thậm chí tử vong.
Người bệnh viêm bể thận cấp thường có sốt có thể gai rét, đau hông lưng. Kết quả xét nghiệm nước tiểu có xuất hiện tế bào mủ, nhiều tế bào hồng cầu và bạch cầu. Sỏi tiết niệu không được điều trị kịp thời là yếu tố thuận lợi gây viêm bể thận cấp.
Hội chứng thận hư
Tình trạng rối loạn chức năng thận, làm cơ thể bài tiết quá nhiều protein qua nước tiểu gọi là hội chứng thận hư. Bệnh gây phù toàn thân, tăng cân, tiểu ít.
Màng lọc cầu thận bị tổn thương khiến đạm thoát vào nước tiểu. Protein niệu cao khiến nước tiểu đục, xuất hiện bọt, một số bệnh nhân đi tiểu ít hơn bình thường trong suốt thời gian bệnh. Xét nghiệm nước tiểu phát hiện hạt mỡ lưỡng chiết, trụ mỡ.
Suy thận
Đây là tình trạng thận mất chức năng, không còn khả năng lọc và đào thải chất độc trong máu. Người bệnh cần được chạy thận hoặc ghép thận để duy trì sự sống.
Để đánh giá tình trạng bệnh và khả năng đáp ứng điều trị, bác sĩ sẽ tiến hành đo lượng nước tiểu được cơ thể bài tiết ra ngoài trong khoảng thời gian nhất định. Nếu lượng nước tiểu giảm dưới 0,5 ml/kg/giờ trong 6 giờ mặc dù bù đủ dịch, người bệnh có nguy cơ suy thận cấp; 0,5 ml/kg/giờ trong 12 giờ là tổn thương thận cấp; dưới 0,3ml/kg/giờ trong 24 giờ, hoặc vô niệu trên 12 giờ là biểu hiện của suy thận cấp.
Tiến sĩ Hiền thông tin thêm, nếu phát hiện máu vi thể trong nước tiểu, người bệnh có khả năng suy thận cấp bởi các tổn thương thận hoặc tắc nghẽn đường tiết niệu.
Trịnh Mai