Trong bài xã luận có tên "Hãy ngừng rón rén trước Nga" hồi đầu tháng 8, Alexander Vindman, cựu giám đốc các vấn đề châu Âu tại Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, lập luận rằng kể từ khi Liên Xô tan rã, cách tiếp cận với Nga của Mỹ đã bị mắc kẹt ở chính sách nhượng bộ. "Trong ba thập kỷ qua, Mỹ đã cố gắng rất nhiều để thừa nhận những lo ngại về an ninh của Nga và xoa dịu họ", Vindman viết.
Ông cho rằng Mỹ đáng lẽ phải theo đuổi một cách tiếp cận khác: thay vì dè dặt từng bước với Nga, Washington đáng lẽ phải chấp nhận một cuộc đối đầu hoàn toàn ngay từ đầu.
Tuy nhiên, Samuel Charap và Michael Mazarr, hai nhà khoa học chính trị cấp cao của tổ chức nghiên cứu RAND ở Mỹ, không đồng tình với quan điểm của Alexander Vindman. Họ cho rằng một mối quan hệ đối đầu hơn với Nga sẽ không mang lại lợi ích cho Washington và "sẽ đặc biệt có vấn đề" trong bối cảnh hiện tại.
"Bài học rút ra từ mọi cuộc khủng hoảng trong Chiến tranh Lạnh cho thấy chính sách thận trọng là cần thiết vào những thời điểm nguy hiểm", Charap và Mazarr nhận định.
Hai chuyên gia của RAND khẳng định chính sách đối ngoại của Mỹ với Nga thời hậu Liên Xô chưa từng "nhún nhường" như Vindman mô tả. Washington đã cố tạo dựng mối quan hệ đối tác với Moskva, nhưng khi lợi ích của hai bên khác nhau, Mỹ không ngần ngại hành động. Ngay cả trong những năm 1990, thời hoàng kim của quan hệ song phương, Washington đã tích cực theo đuổi sự mở rộng của NATO, can thiệp vào Kosovo và củng cố phòng thủ tên lửa đạn đạo trước sự phản đối kịch liệt của Moskva.
Từ đầu những năm 1990, Washington đã cố gắng thuyết phục các nước trong khu vực lân cận Nga rằng Moskva "không phải là ông vua của khu vực", theo lời của Strobe Talbott, cựu cố vấn hàng đầu về Nga của tổng thống Bill Clinton.
Mỹ đã vận động hành lang để thiết lập các đường ống dầu và khí đốt nhằm phá vỡ thế độc quyền về xuất khẩu năng lượng của Nga, đồng thời giúp các nhà sản xuất khác trong khu vực và các nước trung chuyển có nguồn thu riêng. Mỹ cũng hỗ trợ về mặt chính trị và tài chính cho các nhóm nước từng thuộc Liên Xô.
Ngân sách viện trợ của Mỹ thời điểm đó cũng cho thấy rõ sự ưu tiên dành cho các nước láng giềng Nga, theo giới quan sát. Ukraine là tâm điểm trong các nỗ lực của Mỹ ở khu vực. Nếu đồng minh không phản đối, chính quyền của tổng thống George W. Bush đã đưa Ukraine và Gruzia vào hành trình trở thành thành viên NATO hồi năm 2008.
"Bác bỏ các lằn ranh đỏ mà Nga nêu ra là một quy chuẩn trong chính sách của Mỹ ở khu vực", Charap và Mazarr cho hay.
Tuy nhiên, Mỹ cố gắng tránh đối đầu cực đoan với Nga và chính sách đó đã mang lại lợi ích đáng kể. Quan hệ song phương không phải hoàn toàn không có kết quả. Hai bên đã đạt thỏa thuận giảm vũ khí hạt nhân hay Nga từng hỗ trợ cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ dẫn đầu ở Afghanistan sau vụ 11/9.
Kiểu đối đầu hoàn toàn giữa Mỹ và Nga mà Vindman ủng hộ sẽ gây nguy hiểm cho lợi ích của Mỹ và an ninh của các nước láng giềng Nga như Ukraine.
"Trong bối cảnh Nga và Mỹ đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất như hiện tại, ý tưởng về một cuộc đối đầu như vậy thậm chí còn trở nên vô nghĩa hơn. Chiến tranh Lạnh đã cho thấy một bài học rằng: phải kiềm chế khi khủng hoảng", Charap và Mazarr chia sẻ.
Trong các giai đoạn căng thẳng cao độ, các tổng thống Mỹ vẫn thể hiện mức độ tôn trọng lợi ích của Nga.
Năm 1956, tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower không chỉ từ chối can thiệp vào chiến dịch của Liên Xô ở Hungary mà còn mạnh mẽ kêu gọi kiềm chế. Ông bày tỏ lo ngại về khả năng nổ ra chiến tranh thế giới và lập luận rằng nếu Mỹ kiềm chế thì Moskva cũng sẽ có lập trường tương tự. Ngoại trưởng của ông, John Foster Dulles, còn tuyên bố không coi các quốc gia vệ tinh của Liên Xô ở Đông Âu là "đồng minh quân sự tiềm năng". Cuối cùng, thời kỳ Chiến tranh Lạnh đã kết thúc mà không có một cuộc chiến tàn khốc nào xảy ra.
Trong những tháng gần đây, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã vấp nhiều chỉ trích gay gắt về chính sách thận trọng với xung đột Ukraine.
Mỹ là bên hỗ trợ nhiều nhất cho Ukraine. Washington đã gửi hơn 15 tỷ USD viện trợ an ninh cho Kiev kể từ khi xung đột bùng phát. Hồi đầu tháng 9, Nhà Trắng đề nghị quốc hội phân bổ thêm 11,7 tỷ USD để hỗ trợ quân sự Kiev đầu năm 2023. Mỹ cùng đồng minh cũng áp nhiều biện pháp trừng phạt mạnh tay với Nga, như loại các ngân hàng của Moskva khỏi hệ thống giao dịch tài chính SWIFT hay cấm nhập khẩu dầu Nga.
Tuy nhiên, Mỹ nhiều lần tuyên bố không điều quân tới Ukraine, đồng thời cùng với các đồng minh NATO từ chối lời kêu gọi thiết lập vùng cấm bay của Tổng thống Volodymyr Zelensky. Mỹ đến nay vẫn từ chối gửi pháo phản lực tầm xa hay những hệ thống rocket có khả năng tấn công mục tiêu trong lãnh thổ Nga.
Tổng thống Biden từng nói không muốn Mỹ và Nga đối đầu trực tiếp, mà chỉ đơn giản là giúp một nền dân chủ nhỏ tự đấu tranh bảo vệ chính họ. "Cuộc đối đầu trực tiếp giữa NATO và Nga sẽ là Thế chiến III, điều mà chúng tôi cố gắng ngăn chặn", ông nói hồi đầu tháng 3.
Tổng thống Vladimir Putin ngày 21/9 ban lệnh "động viên một phần" tại Nga, nhấn mạnh mục tiêu "giải phóng Donbass". Lệnh động viên được đưa ra chỉ một ngày sau khi 4 vùng ở Ukraine, gồm Donetsk, Lugansk, Kherson và Zaporizhzhia thông báo tổ chức trưng cầu dân ý về sáp nhập Nga ngày 23-27/9.
Động thái này được giới quan sát nhận định có thể làm leo thang xung đột Nga - Ukraine. Tuy nhiên, Mỹ hiện tại chỉ lên án những động thái này của Nga, đồng thời tuyên bố sẽ không bao giờ công nhận các vùng lãnh thổ sáp nhập. Tổng thống Biden khẳng định Mỹ sẽ sát cánh cùng Ukraine.
Lịch sử cho thấy cách tiếp cận thận trọng của chính quyền Biden trong xung đột Ukraine là sự cân bằng khó khăn giữa rủi ro và cơ hội nhưng cần thiết, theo các nhà quan sát. Mỹ đã từng bước tăng hỗ trợ an ninh cho Ukraine và tăng vị thế quân sự của Kiev mà không gây ra cuộc chiến lớn hơn.
"Dù cách tiếp cận này khiến các lãnh đạo Ukraine và giới quan sát bất mãn, nó phản ánh truyền thống ngoại giao từ thời Chiến tranh Lạnh: theo đuổi lợi ích của Mỹ trong khi tránh đụng độ trực tiếp với đối thủ", Charap và Mazarr kết luận.
Thanh Tâm (Theo Foreign Affairs)