18 hố cuối giải, Morikawa ghi bốn birdie, một eagle và không bogey. Anh phát bóng bình quân 301 yard với độ chính xác 85%, cùng tỷ lệ lên green theo chuẩn 66,67%.
Morikawa bước vào ngày cuối với điểm -7, trong nhóm T4 với đương kim vô địch Brooks Koepka và Paul Casey. Đỉnh bảng thuộc về Dustin Johnson ở điểm -9, còn T2 gồm Scottie Scheffler và Cameron Champ (điểm -8). Bên cạnh đó, 11 người khác vẫn còn cửa tranh danh hiệu nhờ cách biệt trong tầm bốn gậy.
Tuy nhiên, chỉ Morikawa đạt đỉnh phong độ. Anh xuất phát từ hố 1 trong nhóm áp chót, sớm đe dọa đỉnh bảng bằng birdie ở hố 3 và 4. Cuộc đua trở nên kịch tính hơn do có lúc bảy golfer cùng chia sẻ đầu bảng. Nhưng từng người trong số ấy lần lượt sơ suất rồi tụt hậu. Riêng Morikawa trụ vững nhờ giữ par liên tục trong quãng đường từ hố 5 đến hố 9.
Matthew Wolff sớm cán đích và tạm giữ đỉnh bảng ở điểm -10, khi Morikawa vào hố 10. Wolff đi trước Morikawa sáu nhóm, bứt tốp nhờ loạt birdie từ hố 7 đến hố 9 và eagle hố 10.
Nhưng Morikawa đã san bằng cách biệt với Wolff nhờ birdie hố 10 rồi lại toàn par trong ba hố tiếp theo. Và 65 gậy ở vòng cuối chỉ đủ giúp Wolff nhảy chín bậc lên nhóm T4 với Jason Day, Bryson DeChambeau, Tony Finau, Scottie Scheffler. Mỗi người trong nhóm này được 404.350 USD.
Morikawa có hai cú đánh để đời đối với sự nghiệp cá nhân trong năm hố còn lại. Ban đầu là cú chip 16,7 mét ghi birdie từ ngoài green hố 14, par4. Nhờ đó, anh lấy lợi thế dẫn trước một gậy. Sang hố 16 par4, dài 336 yard, anh phát bóng lên thẳng green và tiếp đó putt 2,1 mét để ghi eagle.
Lúc này, Morikawa không những phá được thế cân bằng ở đỉnh bảng với Paul Casey đánh cùng Koepka trong nhóm liền kề phía trước, mà còn đạt điểm -13 cùng cách biệt dẫn trước hai gậy. Lợi thế đó được anh duy trì đến cuối nhờ giữ par ở cả hai hố còn lại tương tự Casey - người về nhì cùng Johnson với điểm -11, mỗi người lĩnh 968.000 USD.
Đi cùng Casey, cửa bảo vệ danh hiệu của Koepka khép lại chỉ trong nửa đầu vòng đấu. Trong chín hố đó, anh ghi đến bốn bogey. Mãi đến hố 12, Koepka mới kiếm được birdie đầu tiên. Sang hố 15, anh thêm birdie. Nhưng bấy nhiêu lại cấn trừ hết cho hai bogey trong ba hố cuối. Dùng 74 gậy ở vòng cuối, Koepka rơi 25 bậc xuống nhóm T29 với điểm -3.
Đạt á quân là kết quả đáng tiếc với Johnson. Hôm 8/8, cựu số một thế giới chiếm đỉnh bảng sau ba chặng PGA Championship - lần thứ tư một mình hoặc đồng dẫn đầu sau 54 hố ở major. Nhưng ba lần trước, ở US Open 2010, 2015 và 2018, anh đều không phá được số gậy chuẩn của sân trong vòng cuối hoặc thắng chung cuộc. Đặc biệt, tại Pebble Beach năm 2010, anh kết thúc vòng ba với lợi dẫn ba gậy, nhưng "sập hầm" với bảng điểm 82 gậy ở vòng bốn. Còn hôm 9/8 Johnson phá được par sân nhưng chỉ kiếm thêm được hai gậy qua 18 hố.
Major duy nhất của golfer 36 tuổi, trong bộ sưu tập 21 danh hiệu PGA Tour, là US Open 2016. Và thành tích ở TPC Harding Park một lần nữa cho thấy "kiểm soát bản thân" là vấn đề của anh ở vòng cuối một sự kiện major.
Chiếc Cup Wanamaker mang về cho Morikawa 1,98 triệu USD. Và trong lần thứ hai dự major, Morikawa trở thành nhà vô địch ít dịp dự PGA Championship nhất từ sau khi Keegan Bradley lần đầu xuất hiện rồi lên bục đăng quang năm 2011. Không những thế, anh còn nhập nhóm golfer lần đầu được PGA Championship ở tuổi 23, bên cạnh Jack Nicklaus, Tiger Woods và Rory McIlroy.
Sau 15 tháng đấu PGA Tour, anh đã sở hữu ba danh hiệu. Trước PGA Championship, anh thắng Barracuda Championship 2019 và Workday Charity Open 2020 hôm 12/7.
Quốc Huy tổng hợp