Sau vòng áp chót hôm 8/8, Johnson nhảy 10 bậc để độc chiếm đỉnh bảng ở điểm -9. Vòng này, anh đánh 65 gậy (par70) ghi tám birdie, giữ tám par, bogey ở hố 6 và double bogey hố 9.
"Cuộc đua rất khốc liệt, và thực tế tôi đã trải qua điều này nhiều rồi. Vòng quyết đấu ngày mai sẽ không có gì khác biệt. Tôi phải chơi thật tốt nếu muốn vô địch", Johnson - người về nhì sau Brooks Koepka năm ngoái - nói. "Tôi phải đánh trúng thật nhiều fairway và green. Tôi không quá quan tâm đến người khác. Tất cả những gì tôi phải làm là kiểm soát bản thân".
"Kiểm soát bản thân" đúng là vấn đề đối với Johnson ở những vòng cuối của major. Đây là lần thứ tư golfer Mỹ một mình hoặc đồng dẫn đầu sau 54 hố ở major. Nhưng ba lần trước, ở US Open 2010, 2015 và 2018, anh đều không phá được số gậy chuẩn của sân trong vòng cuối hoặc thắng chung cuộc. Đặc biệt, tại Pebble Beach năm 2010, anh kết thúc vòng ba với lợi dẫn ba gậy, nhưng "sập hầm" với bảng điểm 82 gậy ở vòng bốn. Major duy nhất của golfer 36 tuổi, trong bộ sưu tập 21 danh hiệu PGA Tour, là US Open 2016.
Đương kim vô địch Koepka thuộc nhóm T4 với điểm -7 cùng Colin Morikawa và Paul Casey. Kém Johnson hai gậy, Koepka vẫn rộng đường hướng đến kỳ tích vô địch PGA Championship ba lần liên tiếp theo thể thức đấu gậy áp dụng từ năm 1958. Trong lịch sử, Walter Hagen là người duy nhất sở hữu chuỗi bốn chiến thắng từ 1924 đến 1927 nhưng thời gian đó, sự kiện còn đấu hố đối kháng.
Trong lịch sử của bộ tứ major truyền thống tính từ năm 1860, chỉ sáu golfer vô địch ba năm liền ở một sự kiện thuộc nhóm này. Người gần nhất đạt thành tựu ấy là Peter Thomson, ở The Open Championship từ 1954 đến 1956.
Trái với Johnson, quá khứ ủng hộ Koepka. Anh dẫn đầu hoặc kém một gậy trước khi vào vòng cuối ở cả bốn lần thắng major trước đây, trong đó hai lần ở US Open. Còn riêng PGA Tour, danh hiệu Phoenix Open 2015 là thắng lợi duy nhất khi anh kém ba gậy và còn 18 hố chưa đấu.
Từ đỉnh bảng đến T13 gồm tổng cộng 17 người trong tầm bốn gậy, tính cả Johnson, đạt số lượng đông đảo nhất ở cách biệt như thế sau 54 hố của PGA Championship từ sau 1993 – năm giữ đỉnh thống kê về mặt này với 18 người. Và trong 25 nhà vô địch major gần đây, ai cũng có cách biệt từ bốn gậy trở xuống vào thời điểm nhập cuộc vòng cuối. Nhưng đồng thời, từ sau khi Paul Lawrie thắng The Open Championship 1999, chưa ai đoạt được major từ vị trí ngoài top 10 sau 54 hố.
Scottie Scheffler và Cameron Champ đứng T2 với điểm -8. Lên chuyên nghiệp từ năm 2018, Scheffler mới dự ba major trong 30 sự kiện và chưa giành danh hiệu ở PGA Tour. Còn Champ lần đầu tranh PGA Championship trong ba lần dự major. Anh dẫn đầu PGA Tour về khả năng phát bóng mùa 2018-2019. Trên sân TPC Harding Park từ hôm 6/8, anh giữ đỉnh về thông số này.
Collin Morikawa lần thứ hai dự major. Anh ghi ba birdie trong bốn hố cuối để nhập nhóm với Koepka. Nếu thắng, Morikawa sẽ trở thành nhà vô địch ít dịp dự PGA Championship nhất từ sau khi Keegan Bradley lần đầu xuất hiện rồi lên bục đăng quang năm 2011.
Paul Casey đang kém đỉnh bảng hai gậy. Đây là cách biệt hẹp nhất của anh sau 54 hố ở một giải major trong hơn 16 năm qua. Casey giữ đỉnh 64 lần dự major nhưng không thắng.
Còn Bryson DeChambeau ở nhóm T7, đạt -6. Vòng áp chót, anh ghi birdie ngoạn mục từ cự ly gần 29 mét ở hố 18. DeChambeau từng cán đích T15 ở US Open và đến nay chưa tự phá được thành tích này. Anh đang dẫn đầu PGA Tour về khoảng cách phát bóng và số gậy bình quân trong vòng cuối.
Quốc Huy