Theo các chuyên gia, ba yếu tố tác động chính đến ô nhiễm không khí tại Hà Nội gồm: Nguồn thải từ bên ngoài (vận chuyển tầm xa); nguồn thải tại chỗ (từ các hoạt động như công nghiệp, giao thông, đốt rác…); và ảnh hưởng của điều kiện khí tượng.

“Thủ phạm” từ bên ngoài

Trong nghiên cứu xuất bản vào năm 2004, GS Phạm Duy Hiển và các đồng nghiệp phát hiện nguồn thải vận chuyển tầm xa, tức bụi và chất ô nhiễm từ các tỉnh thành, quốc gia khác xâm nhập vào Hà Nội qua bầu khí quyển. Cụ thể, vào mùa đông (tháng 9 đến 12), nguồn vận chuyển tầm xa chiếm 50% lượng PM2.5 trong khối khí qua lục địa Trung Quốc đến Việt Nam

Phụ thuộc vào thời gian tồn đọng trong khí quyển, chất ô nhiễm như PM2.5 có thể bị “vận chuyển” tới hàng nghìn km. Đây cũng là tình trạng phổ biến ở nhiều quốc gia. Tại châu Á, bụi do cháy rừng và đất than bùn ở Indonesia thường xuyên làm mù mịt bầu trời Singapore, Malaysia và một số nước Đông Nam Á.

TS Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam, nguyên Phó tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường cũ), phân tích ô nhiễm không khí tại Hà Nội bị tác động rất nhiều bởi các tỉnh xung quanh. Phía Nam là Ninh Bình với nhiều nhà máy xi măng công suất lớn. Phía Đông có Hưng Yên, Quảng Ninh phổ biến nhiệt điện. Hải Dương cũ (nay là Hải Phòng) nhiều nhà máy xi măng, thép. Chưa kể, đốt rơm rạ vào mùa thu hoạch cũng phổ biến ở miền Bắc.

Nghiên cứu của World Bank năm 2022 cho thấy, 1/3 lượng bụi mịn PM2.5 ở Hà Nội bắt nguồn từ các hoạt động trong nội đô. Còn lại, ô nhiễm đến từ các tỉnh lân cận khu vực Đồng bằng sông Hồng, các nguồn phát thải xuyên biên giới và yếu tố tự nhiên.

Các nhà máy nhiệt điện than bao quanh Hà Nội

Yếu tố khí tượng như gió mùa Đông Bắc không chỉ mang theo chất ô nhiễm từ những vùng phát thải lớn như lục địa Trung Quốc, mà còn quyết định mức độ bụi mịn tại Thủ đô. Không khí Hà Nội biểu hiện quy luật ô nhiễm rõ rệt theo mùa khí tượng. Các đợt ô nhiễm nghiêm trọng thường tập trung chủ yếu từ tháng 10 đến tháng 2, dù các nguồn thải hoạt động quanh năm.

Theo PGS.TS Nguyễn Thị Nhật Thanh, chuyên gia về công nghệ thông tin và viễn thám trong lĩnh vực ô nhiễm không khí, khí tượng, và sử dụng đất (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội có địa hình lòng chảo, thấp hơn khu vực xung quanh nên chất ô nhiễm khó lưu thông, dễ tích tụ, đặc biệt vào mùa lạnh. Với các tỉnh vùng trung du, địa hình cao, điều kiện thời tiết tương tự thì ít xảy xảy ra ô nhiễm không khí nghiêm trọng.

Vào mùa đông, Hà Nội chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc khiến không khí lạnh, khô, khí quyển ổn định trong nhiều ngày liền, cản trở phát tán không khí, làm gia tăng ô nhiễm. Ngược lại, mùa hè, ánh sáng mặt trời đốt nóng mặt đất tạo nên vùng áp thấp rộng lớn trên lục địa. Không khí ẩm từ biển thổi vào theo gió mùa hè gặp vùng áp thấp này liền bị đẩy lên cao, gây mưa, rửa trôi chất ô nhiễm, giúp không khí sạch hơn.

Đơn cử, năm 2024, Hà Nội ghi nhận bốn đợt ô nhiễm nghiêm trọng trên diện rộng, với ba đợt xảy ra trong khoảng tháng 1-4 và một đợt khác vào tháng 10 - đều thuộc giai đoạn có không khí lạnh.

Ảnh hưởng của thời tiết đến ô nhiễm không khí

Rối ren phân loại nguồn thải nội sinh

Hơn ba thập kỷ nghiên cứu, GS Nguyễn Thị Kim Oanh, chuyên gia về ô nhiễm không khí, mô hình hóa và giám sát môi trường, Viện Công nghệ Châu Á (Thái Lan), nhận thấy số lượng và loại hình nguồn thải nội sinh của Hà Nội tăng rõ rệt, thay đổi theo từng giai đoạn phát triển.

Những năm 1990, xe máy và ôtô còn ít, đường phố thông thoáng, nguồn phát thải chủ yếu từ đun nấu dân dụng và một số khu công nghiệp nhỏ, còn việc đốt rơm rạ hiếm gặp. Quá trình đô thị hóa vào giai đoạn 2000-2008 khiến các nguồn ô nhiễm tại chỗ như giao thông, xây dựng, bụi đường và đốt rơm rạ gia tăng, trở thành nguyên nhân chính làm suy giảm chất lượng không khí.

Cùng với đó, sự mở rộng đô thị nhanh chóng của Hà Nội trong vài thập kỷ qua đã biến nhiều diện tích đất nông nghiệp thành đất đô thị, kéo theo đó là ô nhiễm từ các nguồn phát thải giao thông, công nghiệp và sinh hoạt. Nồng độ ô nhiễm cao tại các khu vực mới được xây dựng cách trung tâm thành phố 6-21 km, đặc biệt là điểm nóng phát thải giao thông và công nghiệp ngoại thành.

Những năm qua, tỷ lệ đóng góp của các nguồn đốt tại chỗ như sinh khối, rơm rạ hay than tổ ong có xu hướng thu hẹp dần, trong khi nguồn giao thông - công nghiệp tăng. Đến năm 2024, dân số Hà Nội khoảng 8,8 triệu người, với 1,1 triệu ôtô và hơn 6,9 triệu xe máy đang hoạt động, 70% trong số này đã sử dụng trên 10 năm. Thành phố có hơn 10 khu công nghiệp, khoảng 1.300 làng nghề cùng các cơ sở sản xuất công nghiệp ở các tỉnh, thành phố lân cận.

Mặc dù Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 đã tạo tiền đề phát triển hệ thống quan trắc chất lượng không khí. Tuy nhiên đến nay, các nghiên cứu về đánh giá tỷ trọng nguồn thải gây ô nhiễm không khí Hà Nội vẫn thiếu thống nhất.

PGS.TS Nguyễn Thị Nhật Thanh, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng khác biệt này do phương pháp và thời điểm nghiên cứu.

Cụ thể, hai mô hình chính để xác định nguồn ô nhiễm gồm: đo từ nguồn phát tán bụi thông qua kiểm kê khí thải; hoặc đo tổng nguồn ô nhiễm tại điểm tiếp nhận. Phương pháp đầu tiên tính toán dựa trên kê khai từ các nguồn phát thải qua hoạt động đốt nhiên liệu, sản xuất, chăn nuôi..., thích hợp để đánh giá quá trình lan truyền bụi trong khí quyển. Mô hình còn lại xác định nguồn dựa trên đặc trưng hóa lý của bụi tại điểm thu gom mẫu, thường bằng cách đặt trạm đo tại các vị trí nhất định để theo dõi.

Cách thống kê nguồn bụi PM2.5 tại Hà Nội thiếu thống nhất, gây khó khăn cho nghiên cứu tỷ trọng nguồn ô nhiễm

“Việt Nam cần thống nhất cách phân loại nguồn, hệ số phát thải và mô hình để có kết luận chung”, PGS.TS Hoàng Anh Lê (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) nhận định.

Ông dẫn chứng các nước như Trung Quốc, Thái Lan đã xây dựng mô hình kiểm kê khí thải quốc gia thống nhất, làm cơ sở cho chính sách kiểm soát toàn diện. Trong khi đó, các nghiên cứu trong nước chưa đồng bộ được về phương pháp và dữ liệu, khiến việc xây dựng chiến lược không khí sạch tổng thể cho Hà Nội gặp khó khăn.

Đồng quan điểm, PGS.TS Lý Bích Thuỷ, Trường Hoá và Khoa học Sự sống, Đại học Bách khoa Hà Nội, dẫn chứng bộ số liệu kiểm kê tổng thể của Trung Quốc được hoàn thiện nhờ sự phối hợp giữa hai đại học lớn là Thanh Hoa và Bắc Kinh, cùng các Viện nghiên cứu cấp tỉnh, nghiên cứu thành phần. Từ kinh nghiệm đó, chuyên gia kiến nghị Việt Nam nên đẩy mạnh nghiên cứu thông qua phối hợp với các trường, viện với nhiệm vụ dài hạn.

GS Nguyễn Thị Kim Oanh cho rằng không chỉ Hà Nội mà các tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Quảng Ninh… cũng cần tiến hành kiểm kê phát thải, bởi 2/3 bụi mịn có nguồn gốc từ bên ngoài thành phố.

“Các biện pháp kiểm soát ô nhiễm không khí cần được quy hoạch ở quy mô vùng, với cách tiếp cận mang tính lưu vực, tương tự quản lý lưu vực sông”, chuyên gia gợi ý.

Khó khăn trong xác định tỷ trọng nguồn ô nhiễm khiến các chính sách kiểm soát chất lượng không khí thời gian qua dàn trải, phân tán và không đạt nhiều kết quả, theo các chuyên gia.

“Bắt bệnh” cho Thủ đô

Theo PGS.TS Lý Bích Thuỷ, các số liệu nghiên cứu cho thấy nồng độ PM2.5 hiện nay ở Hà Nội không có sự gia tăng lớn. Nếu so với kết quả nghiên cứu giai đoạn 2001-2008 của Cohen và cộng sự, nồng độ PM2.5 hiện còn thấp hơn. Bà đánh giá việc duy trì chất lượng không khí, trong khi các sức ép lên môi trường ngày càng gia tăng, là thành quả của nhiều chính sách kiểm soát ô nhiễm. Mặt khác, thực tế một số thành phố, đặc biệt những nơi vốn nổi tiếng ô nhiễm như Trung Quốc, đã có sự cải thiện đáng kể chất lượng không khí trong những năm qua.

"Kết quả từ các quốc gia như Trung Quốc là sự thúc giục cho những hành động hiệu quả hơn tại Việt Nam", chuyên gia nói.

Giai đoạn 2019-2020, trong bối cảnh ô nhiễm đỉnh điểm, Hà Nội ban hành Chỉ thị 19, quyết liệt giảm ô nhiễm với lộ trình xoá than tổ ong, cấm đốt rơm rạ. Năm 2025, Chỉ thị 20 của Thủ tướng đặt ra những yêu cầu mới buộc Hà Nội phải cấp bách kiểm soát các nguồn ô nhiễm nội tại, tập trung vào giao thông với các chính sách kiểm kê khí thải, chuyển đổi xe xăng sang xe điện, và vùng phát thải thấp (LEZ).

Gần đây nhất, ngày 19/11/2025, Thủ tướng đã phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhằm từng bước cải thiện ô nhiễm không khí tại các khu vực kinh tế trọng điểm, nhất là Hà Nội, TP HCM và các tỉnh lân cận. Mục tiêu đến năm 2030, các đô thị lớn phải giảm đáng kể nồng độ bụi mịn và tăng số ngày có chất lượng không khí ở mức tốt và trung bình. Kế hoạch cũng bao gồm các hành động xây dựng dữ liệu khoa học làm cơ sở cho biện pháp can thiệp trong tương lai.

“Đây là cột mốc quan trọng trong quản lý chất lượng không khí quốc gia”, PGS.TS Lý Bích Thuỷ bình luận.

Các chính sách kiểm soát ô nhiễm không khí của Hà Nội 10 năm qua

TS Hoàng Dương Tùng phân tích khi chính sách giảm thiểu được một nguồn ô nhiễm, thì nguồn khác lại tăng nhanh chóng khiến chất lượng không khí không được cải thiện suốt nhiều năm. Ví dụ, trước đây miền Bắc có ô nhiễm từ lò gạch thủ công, sau đó nhà nước cấm thì nguồn sản xuất khác tăng.

Khoảng năm 2000, các làng tái chế bắt đầu phát triển. Để tách kim loại ra khỏi nhựa, cao su hoặc vật liệu cách điện (như dây cáp điện), người dân thường đốt ngoài trời hoặc trong các lò thủ công không có hệ thống xử lý khí thải. Quá trình này sinh ra lượng lớn bụi mịn (PM2.5, PM10) và các khí thải độc hại như CO2, SO2, NOx.

“Mỗi thành phố đều có những đặc điểm gây ô nhiễm riêng. Phải nghiên cứu rất sâu xem nguồn ô nhiễm ở đâu thông qua kiểm kê phát thải thì mới kiểm soát hiệu quả”, ông nói.

Hà Nội trong đợt ô nhiễm không khí tháng 12/2025. Ảnh: Hoàng Giang

Trong cuốn sách Ô nhiễm không khí xuất bản năm 2023, GS Phạm Duy Hiển cho rằng giải pháp giảm thiểu ô nhiễm hiệu quả phải hướng vào nguồn phát các khí như SO2, NO2, NH3 và VOC.

Ông phân tích, trong thành phần nguyên tố của bụi mịn PM2.5 ở đô thị, lưu huỳnh luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (khí SO2 và các sản phẩm liên quan). Chất này thường sinh ra từ than và dầu diesel sau khi bị đốt cháy. Trên thế giới, giảm lượng lưu huỳnh trong nhiên liệu đầu vào là xu thế hữu hiệu. Tuy nhiên, giải pháp này “đụng chạm” đến giá nhiên liệu, do đó chi phí để có môi trường không khí sạch phải được đưa vào bài toán kinh tế năng lượng.

Chuyên gia dẫn chứng tại Trung Quốc, việc cắt giảm ô nhiễm tập trung vào hai nguồn chủ lực là giao thông đô thị và khói bụi do đốt than. Hạn chế phát thải từ xe cơ giới chủ yếu nhờ đẩy nhanh tiến độ thực thi tiêu chuẩn phát thải EURO. Đến năm 2021, chuẩn EURO-6 đã thực thi trên toàn quốc với tất cả các phương tiện cơ giới. Nhờ đó, chất lượng không khí Trung Quốc đã cải thiện những năm gần đây.

Trong dài hạn, PGS.TS Lý Bích Thuỷ cho rằng sau khi đã triển khai các giải pháp ban đầu mang lại hiệu quả rõ rệt, cần tiến hành những nghiên cứu và tính toán cụ thể dựa trên chi phí lợi ích để lựa chọn các giải pháp tối ưu và bền vững hơn.

Để đạt được điều này, ưu tiên hàng đầu là nâng cao chất lượng số liệu, đặc biệt là nắm rõ chi tiết các nguồn phát thải.

Tuy nhiên, đây vẫn là lỗ hổng tồn tại suốt 20 năm, khiến các nhà quản lý thiếu căn cứ để điều chỉnh chính sách, nhà khoa học thiếu công cụ để nghiên cứu và đưa ra thông tin đáng tin cậy.

Bài 1: Người Hà Nội 'hút' thụ động bao nhiêu điếu thuốc mỗi ngày

Bài 3: Khoảng trống dữ liệu không khí Hà Nội

Nội dung: Phùng Tiên - Gia Chính

Đồ họa: Tâm Thảo - Hoàng Thanh

Tài liệu tham khảo:

- Ảnh hưởng của điều kiện khí tượng đến nồng độ PM2.5 và PM2.5-10 trong mùa gió mùa tại Hà Nội, Việt Nam (2002) của GS Phạm Duy Hiển và cộng sự

- Mô hình phân tích nguồn PMF cho bụi mịn và bụi thô PM10 trong các khối khí chịu ảnh hưởng của điều kiện gió mùa ở Hà Nội, miền Bắc Việt Nam năm 2004 của GS Phạm Duy Hiển và cộng sự
- Ô nhiễm không khí. 2023. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. Phạm Duy Hiển.

- Influence of meteorological conditions on PM2.5 and PM2.5−10 concentrations during the monsoon season in Hanoi, Vietnam. (2002). Phạm Duy Hiển và cộng sự

- PMF receptor modelling of fine and coarse PM10 in air masses governing monsoon conditions in Hanoi, northern Vietnam. (2004). Phạm Duy Hiển và cộng sự

- Study variation of PM-10 air pollution at Lang Meteorological Station, Hanoi. (2003). Vương Thu Bắc và cộng sự

- Particulate air pollution in six Asian cities: Spatial and temporal distributions, and associated sources. (2006). Nguyễn Thị Kim Oanh và cộng sự

- Urban Air Quality In The Asian Region. (2008). Philip K. Hopke và cộng sự

- Characterisation and source apportionment of fine particulate sources at Hanoi from 2001 to 2008. (2010). David D. Cohen và cộng sự

- Không khí sạch cho Hà Nội: Những biện pháp khả thi. (2022). World Bank

- Hiện trạng bụi PM2.5 ở Việt Nam giai đoạn 2019-2020 sử dụng dữ liệu đa nguồn. (2021).Trường Đại học Công Nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Live&Learn & USAID