Beyrle, lính dù sinh năm 1923 tới từ Muskegon, bang Michigan, Mỹ, từng từ chối học bổng của Đại học Notre Dame để nhập ngũ. Anh phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh dù số 506, thuộc sư đoàn 101, với chuyên môn về liên lạc vô tuyến và phá hoại hạ tầng của địch.
Trước cuộc đổ bộ lên bờ biển Normandy, Pháp, Beyrle đồn trú tại Ramsbury, Anh, và thường thực hiện các nhiệm vụ ở đằng sau chiến tuyến của địch, như hai lần xâm nhập vào khu vực Đức quốc xã chiếm đóng ở Pháp để cung cấp đồ viện trợ cho quân kháng chiến.
Sáng 6/6/1944, trước khi hơn 5.000 tàu chiến của quân Đồng minh đưa quân đổ bộ lên bãi biển Normandy, hàng nghìn lính dù đã nhảy xuống vùng lãnh thổ Đức kiểm soát và chịu thương vong lớn, nhưng Beyrle may mắn sống sót. Vận tải cơ Douglas C-47 Skytrain trúng pháo phòng không, buộc anh phải nhảy ra ngoài từ độ cao 120 m. Beyrle bung dù và đáp xuống mái nhà thờ St. Come-du-Mont.
John Beyrle, con trai Beyrle và là đại sứ Mỹ tại Nga nhiệm kỳ 2008-2012, cho biết cha mình đã cố gắng liên lạc lại với đồng đội xung quanh nhưng bất thành. Beyrle được cho là còn tranh thủ phá hủy vài công trình của địch, như làm nổ tung một trạm phát điện. Tuy nhiên, tới ngày thứ ba, trong lúc đang bò qua những bụi cây rậm rạp, Beyrle bị một nhóm lính Đức phát hiện và bắt giam.

Joseph Beyrle, lính dù người Mỹ từng chiến đấu cho tiểu đoàn xe tăng Liên Xô trong Thế chiến II. Ảnh: War History.
Cùng với những tù binh khác, Beyrle dần được đưa về phía đông khi quân Đồng minh giành lại ngày càng nhiều lãnh thổ Pháp từ tay Đức. Trong quá trình này, anh đã tìm cách vượt ngục ba lần. Lần đào tẩu đầu tiên diễn ra tại Normandy, khi đoàn xe chở tù binh bị Mỹ tấn công. Beyrle lợi dụng tình thế hỗn loạn để trốn thoát, nhưng bị bắt lại ngay hôm sau.
Không lâu sau, vào mùa thu năm 1944, Beyrle tiếp tục lên kế hoạch đào thoát khỏi một trại tù binh ở Ba Lan. "Cha tôi chơi xúc xắc thực sự rất giỏi và không hút thuốc. Hồi ở trại, ông ấy thắng được 40 bao thuốc và dùng chúng để mua chuộc một lính gác người Đức", cựu đại sứ John cho biết.
Lính gác này đã quay lưng lại trong lúc Beyrle và các bạn tù leo qua hàng rào dây thép gai. Tuy nhiên, trong lúc hối hả chạy trốn, nhóm người đã bắt nhầm tàu. Thay vì tới thủ đô Warsaw của Ba Lan để bắt liên lạc với quân kháng chiến, họ xuống tàu ở Berlin và rơi vào tay lực lượng mật vụ Gestapo của Đức Quốc xã. Beyrle suýt chết vì bị tra tấn, do Gestapo cho rằng anh là một gián điệp Mỹ nhảy dù xuống Berlin.
Beyrle thoát khỏi cảnh "thừa sống thiếu chết" khi quân đội Đức Quốc xã (Wehrmacht) yêu cầu Gestapo giao nộp anh, sau đó đưa anh trở lại khu trại Stalag-III C ở làng Alt Drewitz, phía tây Ba Lan. Tại đây, Beyrle lần thứ ba nỗ lực tìm đến tự do vào tháng 1/1945 và đã thành công.
Lần này, Beyrle trốn trong một thùng xử lý rác, sau đó thoát khỏi sự truy đuổi bằng cách sử dụng la bàn hướng về phía tiếng pháo của Liên Xô. Beyrle chạy vào nơi đóng quân của một tiểu đoàn xe tăng Liên Xô, vẫy một gói thuốc lá, rồi lặp đi lặp lại câu tiếng Nga duy nhất anh biết: "Tôi là một đồng chí người Mỹ", đồng thời cầu nguyện không bị bắn ngay tại chỗ.
Người đứng đầu tiểu đoàn mà Beyrle cầu cứu là Alexandra Samusenko, nữ chỉ huy xe tăng duy nhất trong quân đội Liên Xô, từng được nhận Huân chương Sao đỏ và khi đó 22 tuổi, bằng tuổi Beyrle. Cô gia nhập Hồng quân để trả thù Đức quốc xã, những kẻ đã phá nhà và giết chồng cùng toàn bộ gia đình cô.
Theo lời kể của Beyrle, lính Hồng quân tỏ ra vô cùng ngạc nhiên, nhưng cuối cùng anh đã thuyết phục được Samusenko cứu mạng và cho phép anh chiến đấu cùng tiểu đoàn trước kẻ thù chung tại Berlin. "Họ đưa cho cha tôi một khẩu tiểu liên PPSH-41 mà ông ấy thường nói rằng tốt hơn nhiều so với khẩu Thompson của Mỹ", con trai Beyrle hồi tưởng.
Beyrle đã cùng những người đồng đội mới giải phóng Stalag-III C, khu trại cuối cùng mà anh bị giam cầm. Ký ức của người lính Mỹ về khoảng thời gian sát cánh với Hồng quân Liên Xô hầu như vô cùng tươi đẹp, với những lúc uống vodka cùng bạn bè, cùng nhau chúc sức khỏe Stalin và Roosevelt.
Tuy nhiên, khoảng thời gian này chỉ kéo dài một tháng. Tới đầu tháng 2/1945, Beyrle bị thương trong cuộc không kích của oanh tạc cơ Đức và được đưa tới một bệnh viện ở Ba Lan.
Nguyên soái Georgy Zhukov, phó tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô, đã đến thăm bệnh viện và chú ý tới người Mỹ duy nhất tại đây. Sau khi lắng nghe câu chuyện của Beyrle, Zhukov nhanh chóng giúp anh làm giấy tờ, đảm bảo Beyrle có thể đến được đại sứ quán Mỹ ở Moskva.
Tuy nhiên, hành trình trở về quê hương của Beyrle tiếp tục gặp trở ngại. Sau khi tới được thủ đô của Nga, Beyrle bị giam trong đại sứ quán Mỹ vài ngày, bởi anh được cho là đã chết khi thẻ tên được tìm thấy ở Normandy ngay sau cuộc đổ bộ. Gia đình anh tại Michigan nhận được giấy báo tử từ tháng 9/1944.
Đại sứ quán Mỹ tại Moskva không tin anh là Beyrle, thậm chí nghi ngờ liệu anh có phải điệp viên Đức hay không. Sau khi kiên quyết khẳng định danh tính bản thân, Beyrle đã thuyết phục được đại sứ quán lấy vân tay để xác nhận. Ngày 21/4/1945, Beyrle trở về Michigan. Thế chiến II và hành trình dài của anh cuối cùng đã kết thúc.
Tại quê nhà, cựu binh từng chiến đấu cho quân đội hai quốc gia trở về cuộc sống bình thường, làm việc cho một công ty, kết hôn, xây dựng gia đình và kể những câu chuyện thời chiến cho các con. Ông sau này đến thăm Moskva thêm 5 lần nữa.
Năm 1994, nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc đổ bộ Normandy, Beyrle đã được tổng thống Mỹ khi đó là Bill Clinton và tổng thống Nga Boris Yeltsin vinh danh tại Nhà Trắng. Trong 10 năm tiếp theo, nhận được nhiều sự chú ý cả ở Mỹ và Nga vì hành trình tuyệt vời của mình, Beyrle trở thành biểu tượng đoàn kết giữa hai nước. Ông qua đời năm 2004, hưởng thọ 81 tuổi.
Ánh Ngọc (Theo RBTH, War History)