VERATEA: Serum dưỡng – trẻ hoá da chứa protein tái tổ hợp EGF và FGF-2
Nhóm: Công nghệ gene và ứng dụng
LĨNH VỰCNhóm: Công nghệ gene và ứng dụng
LĨNH VỰCGiới thiệu sản phẩm:
Nhu cầu làm đẹp luôn là một trong những đòi hỏi thiết yếu của con người. Sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu, sự thay đổi về nhu cầu chăm sóc bản thân đã khuyến khích thị trường mỹ phẩm phát triển bao gồm các sản phẩm dưỡng ẩm, chống lão hóa, tái tạo da và điều trị mụn. Theo thống kê của Fortune Business Insights, quy mô thị trường mỹ phẩm toàn thế giới đạt 287,94 tỷ USD vào năm 2021 và dự đoán sẽ đạt 419,28 tỷ USD vào năm 2028 với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm đạt 5% trong giai đoạn này [1]. Trong đó, mỹ phẩm chống lão hoá là một trong những ngành hàng chính, với thị trường đạt 38,62 tỷ USD năm 2018 và dự đoán đạt 60,26 tỷ vào năm 2026, và tốc độ kép trung bình hằng năm đạt 5,5% [2]. Riêng thị trường mỹ phẩm Việt Nam, doanh thu hàng năm là khoảng 15 nghìn tỷ đồng (704,2 triệu USD) (Theo số liệu của Nielsen năm 2013). Theo báo cáo của công ty khảo sát thị trường Euromoniter International tháng 6 năm 2019 [3], thị trường “Chăm sóc da” được ghi nhận tăng trưởng mạnh, đạt doanh số 9,8 nghìn tỉ đồng năm 2018 và dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng, đạt 17 nghìn tỷ đồng vào năm 2023. Trong số các dòng mỹ phẩm chăm sóc da, mỹ phẩm chống lão hoá có doanh số bán hàng tăng trưởng 163,8% từ năm 2013 đến năm 2018. Năm 2018, doanh số của mỹ phẩm chống lão hoá đạt 1,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,4% doanh số thị trường “Chăm sóc da”, đúng thứ 2 sau mỹ phẩm dưỡng ẩm da. Sự tăng trưởng mạnh về kinh tế đã dẫn tới nhu cầu cao trong việc sử dụng các nhãn hiệu mỹ phẩm cao cấp. Điều này được thể hiện qua doanh số mỹ phẩm chống lão hoá dòng cao cấp năm 2018 chiếm 79,1% tổng doanh số của mặt hàng này. Trong khi đó, năm 2017, dân số trên 65 tuổi của Việt Nam chỉ chiếm 5,5%. Theo dự đoán của Tổng cục Dân số [4], tỉ lệ dân số trên 65 tuổi của Việt Nam sẽ chiếm 20% vào năm 2039.Từ dự đoán trên cho thấy, cùng với sự phát triển kinh tế và mức sống của người dân, thị trường của mỹ phẩm chống lão hoá có khả năng tăng trưởng mạnh vào những năm tiếp theo. Tuy nhiên, về thị phần, mỹ phẩm chống lão hoá hiện nay chủ yếu bị chiếm lĩnh bởi các nhãn hiệu mỹ phẩm nổi tiếng và cao cấp của nước ngoài như Shiseido (Shiseido Cosmetics Vietnam Co Ltd.), Nivea (Beiersdorf Vietnam Ltd), Lancôme (L’Oréal Vietnam Co Ltd.) và Kiehl’s (L’Oréal Vietnam Co Ltd.)... Do đó, với mong muốn tạo ra một sản phẩm chống lão hoá hiệu quả mang thương hiệu Việt Nam, nhóm chúng tôi đã nghiên cứu và đưa ra sản phẩm Serum chứa protein tái tổ hợp EGF và FGF-2 với tác dụng dưỡng ẩm, làm sáng da và ngăn ngừa lão hoá. Sản phẩm được phát triển dựa trên nền tảng kiến thức khoa học liên quan đến lão hoá da cũng như tác dụng của protein EGF và FGF-2 trong việc duy trì làn da khoẻ mạnh. Về mặt cấu trúc, da gồm 3 lớp chính: biểu bì, trung bì, và hạ bì. Biểu bì là lớp ngoài cùng của da, chứa hai loại tế bào chính là keratinocyte và melanocyte. Keratinocyte có vai trò tổng hợp protein keratin giúp gắn kết các tế bào trong lớp biểu bì với nhau để tạo nên lớp bảo vệ ngoài cùng của da, trong khi melanocyte tổng hợp sắc tố melanin cho da. Lớp trung bì là lớp giữa của da, gồm nhiều loại tế bào như mạch máu, tế bào thần kinh, tế bào bạch huyết, và nguyên bào sợi được liên kết với nhau bởi collagen. Hạ bì là lớp trong cùng, có vai trò kết nối da và các tổ chức sâu hơn như cơ và xương. Trong đó, nguyên bào sợi (fibroblast) tồn tại trong lớp trung bì có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc duy trì trạng thái khoẻ mạnh và chất lượng của da. Nguyên bào sợi có khả năng sản sinh các thành phần rất cần thiết để duy trì cấu trúc của da như collagen, elastin hyaluronic acid, và chondroitin. Bên cạnh đó, nguyên bào sợi cũng tạo ra nhiều yếu tố cần thiết để đảm bảo sự sinh trưởng bình thường và biệt hoá của keratinocyte, tế bào chính cấu trúc nên biểu bì. Khi da bị lão hoá vì nguyên nhân tuổi tác hoặc do các nguyên nhân bên ngoài khác như tia UV, khói thuốc hay ô nhiễm môi trường, sự tăng trưởng cũng như chức năng của nguyên bào sợi bị suy giảm, dẫn đến lượng collagen bị sụt giảm, elastin được tích luỹ bất thường, lớp biểu bì và trung bì bị mỏng đi. Đó là nguyên nhân làm da bị khô, xuất hiện nhiều nếp nhăn và đường rãnh, sậm màu, và chảy xệ [5]. Do vậy, việc duy trì số lượng và chức năng của nguyên bào rất quan trọng để làm chậm quá trình lão hoá và duy trì vẻ đẹp của làn da. Nhiều nghiên cứu trước đó đã tìm ra nhiều protein có khả năng kích thích sự tăng trưởng của nguyên bào sợi như EGF, FGF-2, KGF, VEGF… Trong đó, nhân tố tăng trưởng nguyên bào sợi FGF-2 và nhân tố tăng trưởng biểu bì EGF là hai protein được sử dụng nhiều nhất trong mỹ phẩm với khả năng khích thích sự tăng sinh của nguyên bào sợi một cách hiệu quả và an toàn. Nhân tố tăng trưởng nguyên bào sợi FGF-2 từ lâu đã được chứng minh có khả năng kích thích tăng sinh nguyên bào sợi, hình thành mạch máu [6, 7] và tái cấu trúc chất nền ngoại bào [8]. Đồng thời, FGF-2 còn kích thích tăng sinh và di chuyển của keratinocyte [9, 10], tế bào chuyên sản xuất các yếu tố miễn dịch như cytokine, interleukin, v.v.. để thu hút các tế bào miễn dịch. Ở lớp biểu bì, keratinocyte kết hợp với melanocyte, tạo thành một mạng lưới chặt chẽ chứa melanin để bảo vệ các tế bào ở bên dưới da tránh khỏi tác động của tia UV. Sự chặt chẽ này còn giúp giảm sự mất nước và thoát nhiệt của cơ thể [11]. FGF-2 tham gia hầu hết các bước để tạo nên một mạch máu hoàn chỉnh như kích thích tăng sinh tế bào nội mô, tăng biểu hện của các enzyme thuỷ phân protein, kích thích tế bào nội mô di chuyển theo hoá hướng động, kích thích tạo thành hình thái mạch máu hoàn chỉnh và duy trì sự tồn tại của tế bào nội mô [12, 13]. Cũng nhờ đó, FGF-2 giúp tăng sự lưu thông của các tế bào miễn dịch đến nơi tổn thương để dọn dẹp các thành phần đứt gãy hoặc tế bào bị hư hỏng ở da. Với vai trò này, FGF-2 (còn được gọi là sh-polypeptide-1 theo danh pháp quốc tế các thành phần mỹ phẩm) được ứng dụng rộng rãi trong các sản phẩm làm đẹp có nguồn gốc sinh học. Năm 2017, tác giả Jie Shen MD và cộng sự đã thử nghiệm thành công việc sử dụng kết hợp chiếu tia laser (2940 nm Er:YAG) và FGF-2 dạng tinh chất bôi tại chỗ giúp chữa trị các vết rạn nứt da cho 30 bệnh nhân sau 6 tháng [14]. Trong một số nghiên cứu khác, FGF-2 còn cho thấy hiệu quả khi chữa trị sẹo lồi thông qua ức chế và kích thích sự biểu hiện của các gen liên quan tới sự tăng hay giảm số lượng các loại các loại nhân tố tăng trưởng và collagen trong quá trình chữa trị [15-17]. Hiện nay, nhiều bằng sáng chế Mỹ (Patent) đã công bố có chứa FGF-2 trong các sản phẩm chống lão hoá [18, 19] và trị sẹo lồi [20]. Về EGF, đây cũng là một yếu tố tăng trưởng đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết tăng trưởng và sự phát triển của nhiều loại tế bào, đặc biệt là tế bào biểu bì. Ở da, EGF đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng và tái tạo của keratinocyte [21], nguyên bào sợi [22, 23]. Bên cạnh đó, EGF còn được chứng minh có khả năng làm giảm sự sản sinh melanin ở tế bào melanocyte khi sử dụng kết hợp với chiếu laser, nhờ vậy EGF còn có tác dụng làm sáng da. Do vậy, bên cạnh FGF-2, EGF cũng được ứng dụng nhiều trong mỹ phẩm với danh pháp sh-oligopeptide-1. Kết quả từ nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy hiệu quả của việc áp dụng các loại kem dưỡng da có chứa yếu tố tăng trưởng EGF bao gồm [24, 25]: - Làm chậm quá trình lão hóa da: EGF giúp thúc đẩy tế bào da hấp thụ chất dinh dưỡng, đẩy nhanh sự sinh trưởng và phát triển của tế bào trên da, kích thích tổng hợp các acid hyaluronic và glycoprotein, giúp cải thiện kết cấu và độ đàn hồi của da làm chậm quá trình lão hóa da. - Kích thích tái tạo tế bào và sửa chữa mô: EGF giúp làm lành vết thương trên bề mặt da và niêm mạc, làm giảm vết sẹo co cứng và da tăng sinh bất thường, tạo ra hiệu ứng tốt trên vết sẹo, đặc biệt là sẹo lồi sau khi mụn trứng cá. - Giảm sắc tố da: EGF có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của các tế bào mới thay thế các tế bào bị tổn thương, ức chế quá trình tổng hợp hắc sắc tố melanin và làm giảm sắc tố melamin trong da, giúp giảm vết thâm nám trên da. - Giảm tác động gây hại của mặt trời, nếp nhăn, tàn nhang, đồi mồi, sửa chữa, ngăn ngừa những tổn thương gây ra bởi các yếu tố như stress, vết bẩn, khói bụi. Với những tác dụng đã được nêu ở trên, FGF-2 và EGF đã và đang được các công ty mỹ phẩm trên thế giới sử dụng như một thành phần quan trọng trong các sản phẩm chống lão hoá, giảm nếp nhăn và làm sáng da. Một số sản phẩm có thể kể đến bao gồm: Dermaheal Cosmeceutical Eye Cream® (Dermaheal, Hàn Quốc), TNS Recovery Complex® (Skin Media, Mỹ), GF Advanced Derm® (GMC Medical, Canada), … Phòng Thí nghiệm Công nghệ Sinh học Phân tử thuộc Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, nơi nhóm chúng tôi hoạt động, là một trong những đơn vị tiên phong về sản xuất protein tái tổ hợp tại Việt Nam. Dựa trên thế mạnh đó, chúng tôi đã nghiên cứu và làm chủ công nghệ sản xuất protein tái tổ hợp EGF và FGF-2 làm nguyên liệu để bổ sung vào sản phẩm mỹ phẩm chăm sóc da. Theo công nghệ này, chúng tôi đã đưa gene mã hoá EGF và FGF-2 vào tế bào vi khuẩn Escherichia coli và tiến hành lên men vi khuẩn để thu nhận protein EGF và FGF-2. Từ nguyên liệu EGF và FGF-2 sản xuất được, chúng tôi tiến hành phối trộn với các nguyên liệu tự nhiên khác để tạo ra sản phẩm dưỡng-trẻ hoá da được đặt tên là VeraTea (Hình 1). Sản phẩm này đã được thử nghiệm trên 30 tình nguyện viên (TNV) bằng máy phân tích da Smart Mirror – LD6021D, kết quả cho thấy sản phẩm giúp cải thiện tình trạng da về lỗ chân lông (78% TNV); đốm nâu bề mặt (91% TNV); nếp nhăn bề mặt (95% TNV); cấu trúc PL (87% TNV); porphyrin và độ ẩm dưới da (78% TNV); sắc tố dưới da, trao đổi chất, và hư tổn do tia cực tím (>65% TNV) sau 90 ngày sử dụng. Sản phẩm cũng được đánh giá độc lập bởi Phòng Khám Chuyên Khoa Thẩm Mỹ Kyoto Nhật Bản (656 Đường 3/2, Quận 10, Tp. HCM) trên 10 TNV, kết quả cũng khẳng định tác dụng của sản phẩm trên da mặt, bao gồm cải thiện tình trạng da về chỉ tiêu lỗ chân lông (4 TNV); chỉ tiêu đốm nâu bề mặt, cấu trúc PL, chất lượng da tại khu vực nhạy cảm trên mặt và độ hư tổn do tia cực tím (7 TNV); chỉ tiêu về nếp nhăn bề mặt, và trao đổi chất qua da (8 TNV); chỉ tiêu về cấu trúc porphyrin dưới da, sắc tố dưới da và độ ẩm dưới da (9 TNV). Ở một ví dụ được trình bày trong Hình 6, kết quả phân tích da của một TNV 35 tuổi cho thấy sau 1 tháng sử dụng sản phẩm, các chỉ tiêu về chất lượng da đã cải thiện đáng kể, đặc biệt là chỉ tiêu đốm nâu trên bề mặt (từ 26 lên 59), nếp nhăn trên bề mặt (từ 36,7 lên 66) và pophyrin dưới da (từ 66 lên 71), và do đó, nhìn chung tuổi sinh lý của da giảm sau quá trình sử dụng. Các kết quả đánh giá này cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho thấy sản phẩm Serum VeraTea của chúng tôi có khả năng cải thiện đáng kể chất lượng da và làm trẻ hoá da. Với việc chủ động sản xuất nguồn nguyên liệu EGF và FGF-2, chúng tôi dự định sẽ thương mại hoá Serum Dưỡng – Trẻ hoá da Made in Vietnam đầu tiên chứa protein EGF và FGF-2 với giá phải chăng cho người tiêu dùng Việt Nam. Tài liệu tham khảo: [1] https://www.fortunebusinessinsights.com/cosmetics-market-102614 [2] https://www.fortunebusinessinsights.com/anti-aging-cosmetics-market-102768 [3] Euromonitor International, Beauty and Personal Care in Viet Nam. 2019: p. 81-95. [4] Tổng cục dân số và kế hoạch hoá gia đình, Chuyên đề: Phân tích các kịch bản về mức sinh và quy mô, cơ cấu dân số Việt Nam đến năm 2049. (12/2014). [5] Rousilândia de Araújo, Myla Lôbo, Kelvis Trindade, Darizy Flávia Silva, Neila Pereira (2019). Fibroblast growth factors: a controlling mechanism of skin aging. Skin Pharmacology and Physiology 275–282. https://doi.org/10.1159/000501145 [6] Cartland, S.P., et al., Comparative evaluation of TRAIL, FGF-2 and VEGF-A-induced angiogenesis in vitro and in vivo. 2016. 17(12): p. 2025. [7] Boras, E., et al., Common angiogenic signalling pathways induced by monomeric C-reactive protein and FGF-2 through MAPK and PI3K. 2017. 7: p. 18. [8]Zhang, X., et al., Receptor specificity of the fibroblast growth factor family The complete mammalian fgf family. 2006. 281(23): p. 15694-15700. [9] Sogabe, Y., et al., Basic fibroblast growth factor stimulates human keratinocyte motility by Rac activation. 2006. 14(4): p. 457-462. [10] Tsuboi, R., et al., Stimulation of keratinocyte migration by growth factors. 1992. 19(11): p. 652-653. [11] Valyi-Nagy, I., et al., Phenotypes and interactions of human melanocytes and keratinocytes in an epidermal reconstruction model. 1990. 62(3): p. 314-324. [12] Cartland, S.P., et al., Comparative evaluation of TRAIL, FGF-2 and VEGF-A-induced angiogenesis in vitro and in vivo. 2016. 17(12): p. 2025. [13] Kumar, R., et al., Regulation of distinct steps of angiogenesis by different angiogenic molecules. 1998. 12(4): p. 749-806. [14] Shen, J., et al., Combination of a 2940 nm Er: YAG laser with recombinant bovine basic fibroblast growth factor (rb‐FGF-2) and light‐emitting diode‐red light (LED‐RL) for the treatment of striae alba: A pilot study. 2018. 17(2): p. 176-183. [15] Shi, H.-X., et al., The anti-scar effects of basic fibroblast growth factor on the wound repair in vitro and in vivo. 2013. 8(4). [16] Wang, P., et al., Basic fibroblast growth factor reduces scar by inhibiting the differentiation of epidermal stem cells to myofibroblasts via the Notch1/Jagged1 pathway. 2017. 8(1): p. 114. [17] Yang, L., et al., Basic Fibroblast Growth Factor Influences Epidermal Homeostasis of Living Skin Equivalents through Affecting Fibroblast Phenotypes and Functions. 2018. 31(6): p. 229-237. [18] Ono, I., Method for treating skin aging by administration of FGF-2. 2013, Google Patents. [19] Ramaiah, A., Agonist Peptides of Basic Fibroblast Growth Factor (FGF-2) and the Method of Reduction of Wrinkles on Skin, Darkening of Hair and Acceleration of Wound Healing. 2009, Google Patents. [20] Ono, I., Method for treating keloid and hypertrophic scars by administration of FGF-2. 2015, Google Patents. [21] Diana Draelos, Z., The Effect of a Combination of Recombinant EGF Cosmetic Serum and a Crosslinked Hyaluronic Acid Serum as Compared to a Fibroblast-Conditioned Media Serum on the Appearance of Aging Skin. Vol. 15. 2016. 738-741. [22] Aldag, C., D. Nogueira Teixeira, and P.S. Leventhal, Skin rejuvenation using cosmetic products containing growth factors, cytokines, and matrikines: a review of the literature. Clinical, Cosmetic and Investigational Dermatology, 2016. 9: p. 411-419. [23] Gibbs, S., et al., Epidermal growth factor and keratinocyte growth factor differentially regulate epidermal migration, growth, and differentiation. 2000. 8(3): p. 192-203. [24] Lembach, K.J.J.P.o.t.N.A.o.S., Induction of human fibroblast proliferation by epidermal growth factor (EGF): enhancement by an EGF-binding arginine esterase and by ascorbate. 1976. 73(1): p. 183-187. [25] Carpenter, G. and S.J.J.o.c.p. Cohen, Human epidermal growth factor and the proliferation of human fibroblasts. 1976. 88(2): p. 227-237.
Tính năng cơ bản:
Serum Dưỡng – Trẻ hoá da sản xuất đầu tiên chứa protein EGF và FGF-2. Sản phẩm được bôi trực tiếp trên da với tác dụng chống lão hoá, sáng da và dưỡng ẩm.
Xuất xứ sản phẩm:
Sản phẩm được nghiên cứu bởi nhóm nghiên cứu Công nghệ Gene và Ứng dụng , thuộc PTN Công nghệ sinh học phân tử, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM với sự hợp tác của Công ty TNHH Động học Stella. Sản phẩm thuộc đề tài nghiên cứu khoa học được tài trợ bởi Sở Khoa học và Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
Mô tả cơ bản:
Để sản xuất Serum dưỡng – trẻ hoá da, đầu tiên chúng tôi tiến hành sản xuất protein EGF và FGF-2 tái tổ hợp. Sau đây là một số thông tin tóm gọn về quá trình sản xuất và chất lượng của sản protein EGF và FGF-2:
- Phương pháp sản xuất: Chúng tôi chọn vi khuẩn Escherichia coli (E. coli) làm tế bào chủ để sản xuất 2 loại protein này do đây chủng chủ sản xuất protein tái tổ hợp truyền thống với nhiều ưu điểm như là tốc độ tăng trưởng nhanh, có khả năng biểu hiện protein nhiều, quy trình nuôi cấy và thu nhận protein đơn giản, rẻ tiền. Cụ thể, chúng tôi tiến hành thu nhận gene mã hoá cho EGF/EGF-2 từ người (gene egf/fgf-2) và biến đổi trình tự các gene này để nó có thể được sản xuất hiệu quả trong vi khuẩn E. coli. Gene sau khi được biến đổi sẽ được đưa vào tế bào vi khuẩn. Chủng vi khuẩn E. colimang gene egf hoặc fgf-2 sau đó sẽ được nuôi cấy trong bồn lên men chứa môi trường dinh dưỡng để sản xuất EGF/FGF-2. Sau đó, các protein này được tinh chế bằng nhiều loại sắc ký để thu nhận protein với độ tinh sạch cao.
- Đặc điểm của nguyên liệu EGF và FGF-2:
Chất lượng của protein EGF và FGF-2 được đánh giá thông qua các phương pháp được quy định trong dược điển Mỹ (dùng để đánh giá protein dùng làm thuốc) trước khi phối trộn với các thành phần khác để sản xuất Serum Veratea.
Kết quả đánh giá chất lượng protein EGF và FGF-2 được thể hiện trong bảng 1 và 2.
Bảng 1: Kết quả kiểm tra chất lượng FGF-2
Mục tiêu |
Phương pháp |
Kết quả |
Định tính protein FGF-2 |
SDS-PAGE, nhuộm Coomassie hoặc nhuộm Bạc Nitrate |
Xác định được vạch FGF-2 trên bảng điện di với kích thước đúng như lý thuyết |
Định lượng protein FGF-2 |
Bradford |
Nồng độ FGF-2 đạt 190,51 ± 3,87 µg/mL |
Đánh giá tạp chất |
Điện di SDS-PAGE và phân tích hình ảnh |
Độ tinh sạch: 92,8% ± 1,6% |
RP-HPLC |
Độ tinh sạch: 97,17 ± 0,20 % |
|
Đánh giá hoạt tính |
Đánh giá hoạt tính kích thích tăng sinh dòng tế bào nguyên bào sợi NIH-3T3 so với đối chứng âm. |
FGF-2 có khả năng kích thích sự tăng sinh nguyên bào sợi với hoạt tính riêng đạt 2,4 x106 ± 0,2 x106 IU/mg |
Đánh giá độ vô khuẩn |
Xác định số lượng vi khuẩn hiếu khí và nấm có trong 100 µl dung dịch nguyên liệu FGF-2 |
Không phát hiện khuẩn lạc trên tất cả các đĩa thạch |
Đánh giá nồng độ nội độc tố |
LAL theo nguyên tắc định lượng đo màu |
Hàm lượng nội độc tố: 0,066 ± 0,001 |
Bảng 2: Kết quả kiểm tra chất lượng EGF
Mục tiêu |
Phương pháp |
Kết quả |
Định tính protein EGF |
Lai Western Blot |
Xác định được vạch tín hiệu EGF trên màng lai |
Định lượng protein EGF |
Bradford |
Nồng độ: 151,8±11,1 µg/ml |
Đánh giá tạp chất |
Điện di SDS-PAGE và phân tích hình ảnh |
Đô tinh sạch: 98,55±0,36% |
Sắc ký RP-HPLC |
Đô tinh sạch: 93,15±1,34% |
|
Đánh giá hoạt tính |
Đánh giá hoạt tính kích thích tăng sinh dòng tế bào nguyên bào sợi NIH-3T3 so với đối chứng âm. |
EGF có khả năng kích thích sự tăng sinh nguyên bào sợi với hoạt tính riêng đạt0,548 ±0,040 x106 IU/mg |
Đánh giá độ vô khuẩn |
Xác định số lượng vi khuẩn hiếu khí và nấm có trong 100 µl dung dịch nguyên liệu EGF |
Không phát hiện khuẩn lạc trên tất cả các đĩa thạch |
Đánh giá nồng độ nội độc tố |
LAL theo nguyên tắc định lượng đo màu |
Hàm lượng nội độc tố: 0,480 ± 0,006 EU/ml |
Các kết quả đánh giá cho thấy cả EGF và FGF-2 đều có độ tinh sạch >90%, vô khuẩn, có khả năng kích thích nguyên bào sợi và có hàm lượng nội độc tố phù hợp với tiêu chuẩn nguyên liệu dành cho mỹ phẩm.
Sau khi sản xuất được protein EGF và FGF-2, chúng tôi tiến hành phối trộn các thành phần lành tính khác bao gồm Glycerol, Sodium Hyaluronate, Dịch chiết nha đam, và Nisin. Quá trình phối trộn dược tiến hành ở nhà máy thuộc công ty TNHH Động học Stella (Hình 2).
- Sản phẩm sau khi phối trộn được gửi mẫu đánh giá độ vô khuẩn tại trung tâm tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 để đánh giá sản phẩm. Kết quả thu nhận từ trung tâm cho thấy mẫu serum của chúng tôi không chứa các vi khuẩn gây bệnh Pseudomonas aruginosa, Staphylococcus aureus, và Candida albicans (Hình 3).
- Mẫu sản phẩm cũng được đánh giá độc lập bởi phòng thí nghiệm dược lý, trung tâm Sarpharcen, Trường Đại học Y Dược Tp. HCM thông qua thử nghiệm kích ứng da trên mô hình thỏ. Thử nghiệm kích ứng da được tiến hành dựa vào mức độ phản ứng của da thỏ sau khi tiếp xúc với chất thử so với phần da đối chứng sinh lý trong 3 ngày theo tài liệu TCVN 6972-2001 và hướng dẫn OECD 404. Kết quả thử nghiệm cho thấy mẫu da đặt nước muối sinh lý không có dấu hiệu ban đỏ, phù nề và không có bất thường gì trong suốt thời gian thử nghiệm. Trong khi đó, vùng da đặt cloroform có hiện tượng đỏ tấy và phù nề nhận thấy rõ từ thời điểm 1 giờ sau khi làm sạch da, mức độ ban đỏ từ 2 đến 4 đồng thời bị phù nề ở mức độ 1 đến 2. Các hiện tượng này vẫn duy trì sau 24, 48 và 72 giờ. Đặc biệt, vùng da đặt Serum da không có biểu hiện ban đỏ hay phù nề, tình trạng da bình thường như phần da không xử lý. Điều này cho thấy Serum không gây kích ứng da trong suốt 72 giờ đánh giá (Hình 4).
Sau khi đánh giá độ an toàn trên thỏ, chúng tôi triển khai đánh giá các sản phẩm mỹ phẩm thông qua thử nghiệm kích ứng da trên 30 tình nguyện viên (TNV) bằng máy phân tích da Smart Mirror – LD6021D, kết quả cho thấy sản phẩm giúp cải thiện tình trạng da về lỗ chân lông (78% TNV); đốm nâu bề mặt (91% TNV); nếp nhăn bề mặt (95% TNV); cấu trúc PL (87% TNV); porphyrin và độ ẩm dưới da (78% TNV); sắc tố dưới da, trao đổi chất, và hư tổn do tia cực tím (>65% TNV) sau 90 ngày sử dụng (Hình 5).
Sản phẩm cũng đồng thời được đánh giá độc lập bởi Phòng Khám Chuyên Khoa Thẩm Mỹ Kyoto Nhật Bản (trên 10 TNV, kết quả cũng khẳng định tác dụng của sản phẩm trên da mặt, bao gồm cải thiện tình trạng da về chỉ tiêu lỗ chân lông (4 TNV); chỉ tiêu đốm nâu bề mặt, cấu trúc PL, chất lượng da tại khu vực nhạy cảm trên mặt và độ hư tổn do tia cực tím (7 TNV); chỉ tiêu về nếp nhăn bề mặt, và trao đổi chất qua da (8 TNV); chỉ tiêu về cấu trúc porphyrin dưới da, sắc tố dưới da và độ ẩm dưới da (90%). Ở một ví dụ được trình bày trong Hình 6, kết quả phân tích da của một TNV 35 tuổi cho thấy sau 1 tháng sử dụng sản phẩm, các chỉ tiêu về chất lượng da đã cải thiện đáng kể, đặc biệt là chỉ tiêu đốm nâu trên bề mặt (từ 26 lên 59), nếp nhăn trên bề mặt (từ 36,7 lên 66) và pophyrin dưới da (từ 66 lên 71), và do đó, nhìn chung tuổi sinh lý của da giảm sau quá trình sử dụng.
Các kết quả đánh giá này cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho thấy sản phẩm Serum VeraTea của chúng tôi có khả năng cải thiện đáng kể chất lượng da và làm trẻ hoá da. Với việc chủ động sản xuất nguồn nguyên liệu EGF và FGF-2, chúng tôi dự định sẽ thương mại hoá Serum Dưỡng – Trẻ hoá da Made in Vietnam đầu tiên chứa protein EGF và FGF-2 với giá phải chăng cho người tiêu dùng Việt Nam.
Yêu cầu đối với cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai ứng dụng sản phẩm:
Để sản xuất sản phẩm VeraTea cần có các hệ thống thiết bị chính như sau:
- Bồn lên men tự động
- Hệ thống ly tâm liên tục để thu nhận tế bào vi sinh vật
- Hệ thống phá tế bào bằng áp suất
- Hệ thống sắc ký tinh sạch protein
- Hệ thống đánh giá chất lượng protein gồm: hệ thống điện di protein, hệ thống sắc ký HPLC, máy đọc đĩa 96 giếng, các thiết bị phục vụ cho việc đánh giá hoạt tính protein trên các dòng tế bào động vật…
- Hệ thống phối trộn nguyên liệu mỹ phẩm
- Hệ thống chiết rót tự động
- Hệ thống đóng gói bao bì
Sản phẩm được phát triển trong khoảng thời gian: 1-3 năm
Số người tham gia làm: 13
Sản phẩm có mặt trên thị trường hoặc đưa vào ứng dụng rộng rãi trong khoảng thời gian: Dưới 3 tháng
Phạm vi thị trường và ngành ứng dụng:
Mỹ phẩm
Tính sáng tạo, đổi mới và công nghệ:
VeraTea là sản phẩm serum dưỡng – trẻ hoá da đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam với nguyên liệu chính là protein EGF và FGF-2. Nhằm chủ động nguồn nguyên liệu, chúng tôi đã ứng dụng thành công công nghệ sản xuất protein tái tổ hợp để sản xuất EGF và FGF-2 từ vi khuẩn Escherichia coli. Điều này cho phép chúng tôi có thể chủ động sản xuất sản phẩm VeraTea với số lượng lớn và cung cấp cho người tiêu dùng với giá rẻ hơn so với các sản phẩm cùng loại được nhập khẩu hiện nay.
Tính ứng dụng:
Như đã trình bày trước đó, nhu cầu làm đẹp luôn là một trong những đòi hỏi thiết yếu của con người. Sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu, sự thay đổi về nhu cầu chăm sóc bản thân đã khuyến khích thị trường mỹ phẩm phát triển bao gồm các sản phẩm dưỡng ẩm, chống lão hóa, tái tạo da và điều trị mụn. Bên cạnh đó, sự già đi của dân số Việt Nam cùng với sự phát triển kinh tế và mức sống của người dân cho thấy thị trường của mỹ phẩm chống lão hoá có khả năng tăng trưởng mạnh vào những năm tiếp theo. Theo đó, sản phẩm Serum dưỡng - trẻ hoá da của chúng tôi có tính ứng dụng cao. Ngoài ra, với việc chủ động sản xuất nguồn nguyên liệu EGF và FGF-2, chúng tôi dự định sẽ thương mại hoá sản phẩm này với giá phải chăng cho người tiêu dùng Việt Nam. Do đó, chúng tôi có cơ sở để tin rằng sản phẩm sẽ có lượng tiêu thụ đáng kể khi được đưa ra thị trường.
Tính hiệu quả:
Như đã đề cập ở trên, các đánh giá trên tình nguyện viên cho thấy sản phẩm của chúng tôi có hiệu quả cải thiện chất lượng da mặt đáng kể, cụ thể là: Kết quả đánh giá trên 30 tình nguyện viên (TNV) bằng máy phân tích da Smart Mirror – LD6021D, kết quả cho thấy sản phẩm giúp cải thiện tình trạng da về lỗ chân lông (78% TNV); đốm nâu bề mặt (91% TNV); nếp nhăn bề mặt (95% TNV); cấu trúc PL (87% TNV); porphyrin và độ ẩm dưới da (78% TNV); sắc tố dưới da, trao đổi chất, và hư tổn do tia cực tím (>65% TNV) sau 90 ngày sử dụng. Kết quả đánh giá độc lập bởi Phòng Khám Chuyên Khoa Thẩm Mỹ Kyoto Nhật Bản (656 Đường 3/2, Quận 10, Tp. HCM) trên 10 TNV khẳng định tác dụng của sản phẩm trên da mặt, bao gồm cải thiện tình trạng da về chỉ tiêu lỗ chân lông (4 TNV); chỉ tiêu đốm nâu bề mặt, cấu trúc PL, chất lượng da tại khu vực nhạy cảm trên mặt và độ hư tổn do tia cực tím (7 TNV); chỉ tiêu về nếp nhăn bề mặt, và trao đổi chất qua da (8 TNV); chỉ tiêu về cấu trúc porphyrin dưới da, sắc tố dưới da và độ ẩm dưới da (90%). Các kết quả trên cung cấp các bằng chứng khoa học cho thấy sản phẩm Serum của chúng tôi có khả năng chống lão hoá, giữ ẩm và làm sáng da.
Tiềm năng phát triển:
Dựa trên nguyên liệu cơ bản giúp trẻ hoá da là protein EGF và FGF-2, chúng tôi dự tính sẽ tiếp tục phát triển các sản phẩm khác như nước cân bằng (toner) và kem dưỡng để phối hợp sử dụng với sản phẩm serum này nhằm tăng cường hiểu quả dưỡng ẩm, làm sáng da và ngăn ngừa lão hoá. Bên cạnh đó, FGF-2 còn được chứng minh có khả năng làm đen tóc do tác dụng kích thích sự tăng sinh tế bào melanocyte trong nang tóc, đây là tế bào sản xuất melanin giúp tóc có màu đen. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu cho thấy FGF-2 có khả năng kích thích sự hình thành tế bào sinh tóc từ nhiều nguồn tế bào gốc khác nhau [55]. Hiện nay, liệu pháp PRP (liệu pháp sử dụng các loại protein có khả năng kích thích tăng sinh) đang được nhiều thẩm mỹ viện trên thế giới như La Belle Vie và OC Hair Restoration (Hoa Kỳ) sử dụng để chữa trị cho những bệnh nhân bị rụng tóc, trong thành phần của PRP có chứa protein FGF-2. Do vậy, protein này cũng có thể được ứng dụng để phát triển các dòng mỹ phẩm chăm sóc tóc.