Khi dự kiến gặp Thái tử Mohammed bin Salman ở Arab Saudi vào tháng 7, Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ theo bước chân của những người tiền nhiệm như Jimmy Carter, người đã bay đến Tehran vào năm 1977 để nâng ly chúc mừng với nhà vua Iran Mohammad Reza Pahlavi vào đêm giao thừa.
Giống như Thái tử Mohammed, vua Pahlavi của Iran khi đó cũng bị Mỹ cáo buộc có các hành động vi phạm nhân quyền. Nhưng tổng thống Carter buộc phải đến gặp và nâng ly với ông vì một lý do được người dân ở Mỹ vô cùng quan tâm lúc bấy giờ: Xăng rẻ hơn và nguồn cung dầu ổn định.
45 năm sau, nước Mỹ rơi vào tình huống tương tự, khi đối mặt cuộc khủng hoảng năng lượng tồi tệ khiến giá xăng tăng vọt, trong khi nguồn cung ngày càng khan hiếm.
Cũng như Carter, Tổng thống Biden biết rằng mình có rất ít công cụ để giảm giá xăng, đặc biệt khi nguồn cung dầu Nga, một trong những nhà sản xuất năng lượng hàng đầu thế giới, đang bị chặn lại vì các lệnh trừng phạt liên quan đến chiến dịch quân sự mà nước này thực hiện ở Ukraine. Vào thời của tổng thống Carter, nguồn cung dầu cho phương Tây đã bị đe dọa bởi các cuộc cách mạng ở Trung Đông.
Trong chiến dịch tranh cử năm 2020, ông Biden đã tuyên bố sẽ buộc Arab Saudi phải "trả giá" sau khi Riyadh bị cáo buộc đứng sau vụ ám sát nhà báo Jamal Khashoggi ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, giới chức Mỹ tuần trước cho biết ông dự định đến thăm Arab Saudi vào mùa hè này. Đây là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy dầu mỏ đã một lần nữa lấy lại vị trí trung tâm trong tính toán địa chính trị của Mỹ.
Chỉ vài năm trước, nhiều nghị sĩ ở Washington và các giám đốc dầu khí ở Texas vẫn tự hào vì có thể biến Mỹ thành nước xuất khẩu ròng dầu cũng như các sản phẩm từ dầu mỏ, giúp Mỹ độc lập hơn về năng lượng. Nhưng với việc giá dầu đang tăng phi mã, thành tích đó giờ có vẻ viển vông.
Mỹ là nhà sản xuất dầu mỏ và khí đốt tự nhiên lớn nhất toàn cầu, nhưng lại chỉ chiếm khoảng 12% nguồn cung xăng dầu toàn cầu. Giá dầu, nguồn chính tạo ra xăng, vẫn có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào những sự kiện ở cách Mỹ nửa vòng Trái đất. Thực tế cho thấy chưa một tổng thống Mỹ nào, dù quyền lực hay tài năng đến đâu, có thể kiểm soát được giá dầu.
Đây được coi là một nỗi thất vọng với cử tri Mỹ, những người đang phải trả cả trăm USD mỗi lần đổ xăng, tăng đáng kể so với một năm trước.
Khi giá xăng lên cao, cử tri Mỹ yêu cầu chính quyền phải hành động và họ sẵn sàng quay lưng với các tổng thống nếu vấn đề không được giải quyết.
Trong bối cảnh đó, các tổng thống Mỹ buộc phải cố gắng thuyết phục hoặc xuống nước, nhằm thuyết phục các nhà sản xuất dầu trong nước lẫn nước ngoài bơm nhiều dầu hơn nữa ra thị trường.
"Là tổng thống, họ phải cố gắng", Bill Richardson, bộ trưởng năng lượng Mỹ dưới thời Bill Clinton, nói. "Không may, họ chỉ có những lựa chọn tồi. Và tất cả các lựa chọn khác với ông Biden đều tệ hơn phương án thuyết phục Arab Saudi tăng sản xuất dầu".
Hai quốc gia khác có thể tăng đáng kể sản lượng dầu, Iran và Venezuela, đều là đối thủ của Mỹ và đang bị các lệnh trừng phạt phương Tây cắt khỏi thị trường dầu toàn cầu. Việc đàm phán bất kỳ thỏa thuận nào với các lãnh đạo Iran và Venezuela mà không chấp nhận nhượng bộ quan trọng về các vấn đề như làm giàu hạt nhân hay cải cách chính trị dường như đều bất khả thi với Tổng thống Biden.
Các chuyên gia năng lượng cho biết ngay cả Arab Saudi, quốc gia được coi là có năng lực sản xuất dầu dự phòng mạnh nhất hiện nay, cũng không thể tự mình hạ giá năng lượng một cách nhanh chóng. Nguyên nhân là do sản lượng khai thác của Nga đang giảm và có thể xuống thấp hơn nữa khi các nước châu Âu ngừng mua dầu từ Moskva.
"Tổng thống có thể là người quyền lực nhất trong chính phủ Mỹ, nhưng ông ấy không thể kiểm soát giá dầu", Chase Untermeyer, đại sứ Mỹ tại Qatar dưới chính quyền George W. Bush, cho hay. "Ngay cả khi giá dầu giảm vì những lý do ngoài tầm kiểm soát của ông ấy, Tổng thống Biden có lẽ cũng không được ghi nhận nhiều công lao".
Một số nghị sĩ Cộng hòa và các giám đốc dầu khí cho rằng ông Biden có thể làm nhiều hơn nữa để tăng sản lượng dầu trong nước bằng cách cấp phép thêm nhiều dự án khoan dầu ở các vùng đất, vùng biển thuộc sở hữu của chính phủ liên bang như Alaska hay Vịnh Mexico. Tổng thống Mỹ cũng có thể nới lỏng quy định về xây dựng đường ống để Canada có thể chuyển nhiều dầu hơn cho Mỹ.
Nhưng ngay cả những sáng kiến đó, vốn bị các nhà bảo vệ môi trường và nhiều đảng viên Dân chủ phản đối vì cản trở nỗ lực chống biến đổi khí hậu, cũng không thể mang đến tác động tức thì vì phải mất vài tháng các giếng dầu mới có thể đi vào vận hành và phải mất nhiều năm để xây dựng các đường ống dẫn dầu.
"Mọi biện pháp được họ đưa ra chỉ có tác động khiêm tốn đến giá dầu hiện nay, bởi chúng chủ yếu liên quan đến sản xuất trong tương lai", Jason Bordoff, giám đốc Trung tâm Chính sách Năng lượng Toàn cầu, nhận định. "Và chúng sẽ đi kèm với những hệ lụy đáng kể về chính trị, xã hội và môi trường".
Tổng thống Biden và đội ngũ trợ lý của ông đã nỗ lực thuyết phục các giám đốc dầu khí Mỹ bơm thêm dầu nhưng không thành công. Hầu hết các công ty dầu mỏ đều miễn cưỡng mở rộng sản xuất, vì họ sợ rằng việc tăng khai thác sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa, khiến giá cả giảm như thời kỳ giá dầu xuống mức âm khi đại dịch Covid-19 bùng phát.
Một nỗ lực khác của chính quyền Biden dường như cũng không thành công là quyết định xả một triệu thùng dầu mỗi ngày từ Kho Dự trữ Chiến lược. Giới phân tích cho rằng với việc nước Mỹ tiêu thụ khoảng 20 triệu thùng dầu mỗi ngày, hành động "xả kho" này gần như không tạo ra bất kỳ tác động đáng kể nào.
Các trợ lý của Tổng thống Biden cũng đã nỗ lực đàm phán với Venezuela và Iran với hy vọng tăng thêm nguồn cung dầu ra thị trường, nhưng tiến độ đang bị đình trệ.
Chính quyền Mỹ gần đây đã gia hạn giấy phép miễn trừ một phần cho tập đoàn dầu mỏ Chevron khỏi các lệnh trừng phạt của Mỹ vốn nhằm làm tê liệt ngành công nghiệp dầu mỏ Venezuela. Hồi tháng 3, ba quan chức Mỹ đã đến thủ đô Caracas, Venezuela, nhằm thuyết phục Tổng thống Nicolas Maduro tham gia các cuộc đàm phán với phe đối lập chính trị.
Trong một nỗ lực giảm nhẹ lệnh trừng phạt khác, công ty năng lượng và hóa dầu Repsol của Tây Ban Nha và Eni của Italy có thể bắt đầu vận chuyển một lượng nhỏ dầu từ Venezuela đến châu Âu trong vài tuần nữa, Reuters ngày 5/6 đưa tin.
Venezuela có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới. Nhưng sau thời gian dài khủng hoảng kinh tế và hứng chịu lệnh cấm vận, ngành dầu mỏ của nước này đã bị tê liệt đến mức có thể mất vài tháng hoặc thậm chí nhiều năm để có thể tăng đáng kể lượng dầu xuất khẩu.
Với Iran, ông Biden đang tìm cách hồi sinh thỏa thuận hạt nhân năm 2015 mà người tiền nhiệm Donald Trump đã rút khỏi. Thỏa thuận, nếu được thông qua, sẽ cho phép Iran xuất khẩu hơn 500.000 thùng dầu mỗi ngày, giúp giảm bớt căng thẳng nguồn cung toàn cầu và bù đắp cho lượng dầu thiếu hụt từ Nga. Iran cũng có khoảng 100 triệu thùng dầu dự trữ, có khả năng sẽ được giải phóng nhanh chóng nếu nước này được gỡ cấm vận.
Tuy nhiên, các cuộc đàm phán về thỏa thuận hạt nhân dường như đang sa lầy vào bất đồng và được dự đoán khó sớm có kết quả.
Ngay cả khi đạt được thỏa thuận với Venezuela hoặc Iran, ông Biden vẫn có nguy cơ hứng chịu đòn phản công chính trị từ phe Cộng hòa, thậm chí là một số đảng viên Dân chủ, những người kịch liệt phản đối thỏa hiệp với hai nước này.
"Không tổng thống nào muốn loại Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran khỏi danh sách khủng bố", Ben Cahill, chuyên gia năng lượng tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington, nói về một trong những điểm mấu chốt gây đình trệ các cuộc đàm phán hạt nhân với Iran. "Các tổng thống Mỹ luôn cảnh giác với bất kỳ động thái nào khiến họ trông có vẻ như đang nhượng bộ về chính trị hay trao chiến thắng cho các đối thủ của Washington".
Theo các chuyên gia về chính sách đối ngoại, dù khủng hoảng dầu mỏ khi xung đột nổ ra là không thể tránh khỏi, chúng dường như luôn gây bất ngờ đối với các chính quyền tổng thống Mỹ. Bordoff, cố vấn của cựu tổng thống Barack Obama, cho rằng để thoát khỏi tình thế này, Mỹ nên đầu tư nhiều hơn vào ôtô điện, đồng thời khuyến khích tiết kiệm và sử dụng nhiên liệu hiệu quả hơn nhằm giảm nhu cầu năng lượng, thay vì hối thúc các bên bơm thêm dầu ra thị trường.
"Lịch sử cho thấy khi khủng hoảng dầu mỏ nổ ra, các chính trị gia thường rất lúng túng trong nỗ lực tìm kiếm những gì họ có thể làm để lập tức giảm giá xăng", Bordoff nói. "Các tổng thống Mỹ cần chuẩn bị tốt hơn cho đất nước trong tương lai, khi một cuộc khủng hoảng dầu mỏ bùng phát không thể tránh khỏi".
Vũ Hoàng (Theo NY Times)