Những âm thanh chói tai rít lên bao trùm nhà máy sản xuất đạn Scranton, khi những đầu đạn pháo nóng đỏ được nhúng vào dầu sôi. Richard Hansen, lãnh đạo nhà máy thuộc sở hữu chính phủ Mỹ, giải thích đây là cách để đảm bảo đầu đạn pháo phát nổ theo đúng tính toán khi chúng được khai hỏa, nhiều khả năng là trên chiến trường ở Ukraine.
Nhà máy Scranton là một phần trong mạng lưới sản xuất đạn pháo 155 mm cho Lục quân Mỹ, cũng như đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực của Tổng thống Joe Biden nhằm đẩy nhanh tốc độ viện trợ hỏa lực cho Ukraine đối đầu Nga.
"Trước khi cung cấp vũ khí cho Ukraine, chúng tôi chưa từng nghĩ rằng có ngày Mỹ sẽ chỉ còn đủ dự trữ trong vài ngày cho một số loại đạn quan trọng", Michael McCord, quan chức cấp cao Lầu Năm Góc, thừa nhận hồi đầu tháng.
Để bù đắp lượng đạn thiếu hụt, Lầu Năm Góc đã phân bổ khoảng 3 tỷ USD để mua đạn từ các đồng minh, cũng như tăng sản xuất trong nước. Một phần khoản tiền đó được chi cho các dây chuyền sản xuất đạn pháo 155 mm như ở nhà máy Scranton.
Kế hoạch tăng quy mô sản xuất đạn pháo trong hai năm tới của Lầu Năm Góc được đánh giá là một bước đột phá trong nỗ lực giải quyết cơn khát vũ khí cho Ukraine. Nhưng cuộc xung đột cũng bộc lộ những điểm yếu mà guồng máy sản xuất vũ khí của Mỹ phải khắc phục để hỗ trợ đồng minh, đồng thời đảm bảo năng lực tự vệ trước kịch bản xung đột quy mô lớn nổ ra trên lãnh thổ Mỹ.
Mỹ chi hơn 800 tỷ USD mỗi năm cho quốc phòng, mức cao nhất thế giới, sở hữu ngành công nghiệp quốc phòng hiện đại bậc nhất, nhưng Washington từ lâu đã đối mặt nhiều thách thức trong phát triển và sản xuất hiệu quả các loại vũ khí mang đến sức mạnh quân sự vượt trội.
Mỹ biên chế tiêm kích tàng hình F-22 hiện đại hàng đầu thế giới, nhưng dây chuyền sản xuất đã bị ngừng khi mới chỉ chế tạo được 187 do chi phí quá đắt đỏ. Lầu Năm Góc muốn hồi sinh dây chuyền chế tạo F-22, nhưng đối mặt nhiều rào cản lớn, khiến nỗ lực này khó thành hiện thực.
Tập đoàn Raytheon trong gần 20 năm qua cũng không nhận được đơn đặt hàng tên lửa phòng không vác vai Stinger cho quân đội Mỹ, nên đã vô cùng chật vật tăng sản xuất để bù đắp kho dự trữ Mỹ sau khi chuyển hàng nghìn hệ thống Stinger cho Ukraine.
Chiến sự Nga - Ukraine cũng mở ra các cuộc thảo luận nghiêm túc bên trong giới lãnh đạo quân sự Mỹ về yêu cầu phải khắc phục điểm yếu của ngành công nghiệp quốc phòng và tìm kiếm con đường mới nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất ở những thời điểm khủng khoảng.
Theo một báo cáo phân tích từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), sản lượng hiện tại của các nhà máy quốc phòng Mỹ không thể ngăn nguy cơ các kho dự trữ những vũ khí chính mà Washington đang cung cấp cho Kiev trở nên cạn kiệt.
Ngay cả khi đẩy nhanh tốc độ sản xuất, Mỹ cũng sẽ phải mất ít nhất vài năm để phục hồi kho dự trữ tên lửa chống tăng Javelin, tên lửa Stinger cùng một số vũ khí thiết yếu khác.
Nghiên cứu trước đó do nhóm chuyên gia cố vấn của Washington thực hiện phơi bày một vấn đề phổ biến hơn: Tốc độ sản xuất chậm đồng nghĩa Mỹ sẽ mất tới 15 năm ở mức hoạt động thời bình và hơn 8 năm ở mức thời chiến để lấp đầy trở lại các kho dự trữ những hệ thống vũ khí quan trọng, như tên lửa dẫn đường, máy bay có người lái và không người lái, nếu chúng bị phá hủy trong giao tranh hoặc được cung cấp cho đồng minh.
"Đây là hồi chuông cảnh tỉnh", Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ Jack Reed cho biết. "Chúng ta phải sở hữu một nền tảng công nghiệp có khả năng đáp ứng nhanh với khủng hoảng".
Sau một năm xung đột, viện trợ quân sự của Mỹ cho Ukraine đã lên tới 30 tỷ USD, bao gồm mọi thứ từ kính nhìn đêm đến xe tăng Abrams. Nhiều vũ khí lấy từ kho của Lầu Năm Góc, số khác phải được sản xuất tại các nhà máy Mỹ.
Dòng khí tài từ phương Tây đã hỗ trợ đáng kể cho Ukraine trong nỗ lực kháng cự quân đội Nga. Nhưng khi giao tranh kéo dài, nguy cơ kho dự trữ quân sự của các quốc gia viện trợ bị rút cạn đang khiến giới chức Mỹ và châu Âu không khỏi lo âu.
Ước tính trong vài tháng qua, lực lượng Ukraine bắn trung bình 7.700 quả đạn pháo mỗi ngày, vượt xa sản lượng của Mỹ trước xung đột là 14.000 quả đạn 155 mm mỗi tháng.
8 tháng đầu chiến sự, quân đội Ukraine đã khai hỏa số tên lửa phòng không Stinger đủ dùng trong 13 năm và tên lửa Javelin dùng trong 5 năm, theo Raytheon, công ty sản xuất cả hai mẫu tên lửa trên.
"Xung đột Ukraine cho thấy rõ ràng rằng ngành công nghiệp quốc phòng của chúng ta đang không ở mức ta cần để có thể sản xuất đủ đạn dược", Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ Colin Kahl tuần trước nói với các nhà lập pháp. "Chúng sẽ rất quan trọng trong một, hai hay ba năm tới, bởi ngay cả khi xung đột khép lại, Ukraine sẽ cần một lực lượng quân đội đủ năng lực bảo vệ lãnh thổ".
Vấn đề không chỉ giới hạn ở đạn dược hay các mặt hàng vũ khí cung cấp cho Ukraine. Theo Mark Cancian, chuyên gia quốc phòng từ CSIS, với tốc độ sản xuất tại các nhà máy hiện nay, Mỹ sẽ mất hơn 10 năm để thay thế phi đội trực thăng UH-60 Black Hawk và gần 20 năm với kho dự trữ tên lửa không đối không tầm trung. Lầu Năm Góc cũng sẽ mất tối thiểu 44 năm để có thể thay thế hạm đội tàu sân bay của mình.
Phân tích riêng của Lầu Năm Góc cho thấy vấn đề với ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ bắt nguồn từ làn sóng hợp nhất các tập đoàn quốc phòng sau Chiến tranh Lạnh, khi chi tiêu quân sự bị thu hẹp và số lượng quân nhân giảm 1/3.
Trong thế giới mà hầu hết mọi người đều nghĩ một cuộc xung đột quy mô lớn như chiến sự Nga - Ukraine khó có thể xảy ra, chính phủ Mỹ từng hoan nghênh việc sáp nhập các cơ sở sản xuất quốc phòng, khiến lĩnh vực này bị thu hẹp đáng kể. Có thời điểm, 1.000 công việc liên quan đến lĩnh vực quốc phòng dân sự biến mất mỗi ngày. Vào những năm 1990, Mỹ sở hữu 51 công ty quốc phòng lớn, nhưng đến nay chỉ còn 5. Số lượng các nhà sản xuất máy bay đã giảm từ 8 xuống còn 3. Trong khi đó, 90% tên lửa hiện nay được sản xuất tại ba cơ sở chính.
Lầu Năm Góc từng thiết kế các chương trình vũ khí có ít nhất hai nguồn sản xuất, nhưng theo thời gian, họ bắt đầu coi điều này là lãng phí. "Chúng tôi bắt đầu ngừng mua nhiều hơn mức cần thiết, ngừng trả nhiều hơn so với mức chúng tôi cần", cựu quan chức phụ trách mua sắm tại Bộ Quốc phòng Mỹ cho hay.
Theo các chuyên gia trong ngành, nhu cầu quân sự không nhất quán, không thể đoán trước khiến những công ty quốc phòng gặp khó khăn trong việc lên kế hoạch sản xuất và ngần ngại đầu tư thêm. Và vì không có thị trường thương mại cho các mặt hàng như tên lửa đất đối không hoặc bom chính xác, những công ty sản xuất chuyên biệt không thể duy trì hoạt động dựa vào nhu cầu dân sự.
Các quan chức cũng lưu ý tình trạng chậm trễ trong sản xuất cũng một phần do thiết bị quân sự ngày nay phức tạp hơn so với trước đây. Vũ khí hiện tại thường yêu cầu vi điện tử và các bộ phận đến từ hàng chục hoặc hàng trăm cơ sở khác nhau. Ví dụ tiêm kích tàng hình F-35 của Lockheed Martin chứa 300.000 linh kiện từ 1.700 nhà cung cấp.
Doug Bush, quan chức phụ trách mua vũ khí chính cho Lục quân Mỹ, mô tả quyết định của chính phủ về việc duy trì các cơ sở sản xuất như nhà máy đạn Scranton là một canh bạc đã được đền đáp. "Họ giữ lại chúng để phòng hờ cho những gì đang diễn ra", ông nhấn mạnh, ám chỉ cuộc xung đột ở Ukraine.
Quân đội Mỹ đang có kế hoạch tăng công suất sản xuất đạn 155 mm từ khoảng 14.000 quả/tháng hiện nay lên mức 90.000. Quân đội cũng dự kiến chi 80 triệu USD để đưa một cơ sở sản xuất động cơ tên lửa Javelin vào hoạt động và tăng gấp đôi sản lượng lên khoảng 4.000 tên lửa mỗi năm.
Bộ Quốc phòng Mỹ gần đây còn ký hợp đồng trị giá 1,2 tỷ USD với Raytheon để chế tạo thêm 6 hệ thống phòng không NASAMS đang được sử dụng ở Ukraine, nhưng chúng sẽ chỉ sẵn sàng sau ít nhất hai năm nữa.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu lưu ý rằng trong 45 tỷ USD mà quốc hội đã phân bổ để tăng sản xuất vũ khí mới, Lầu Năm Góc tính đến tháng hai mới ký các hợp đồng trị giá khoảng 7 tỷ USD, đặt ra câu hỏi liệu họ đã hành động đủ nhanh hay chưa.
Các quan chức trong ngành, nhà lập pháp và lãnh đạo Lầu Năm Góc đồng tình rằng mục tiêu xây dựng lại năng lực công nghiệp để tăng tốc độ sản xuất vũ khí đòi hỏi cả thời gian lẫn tiền bạc. "Lên kế hoạch phát triển cho một ngành công nghiệp quy mô lớn như thế này thực sự là thách thức", Doug Bush nhấn mạnh.
Tại nhà máy Scranton, các công nhân mất nhiều ngày mới hoàn thành vỏ đầu đạn pháo rồi chuyển chúng đến một nhà máy ở Iowa, nơi thuốc nổ được nhồi vào quả đạn. Có thể mất hai tới ba tháng kể từ khi đạn pháo rời xưởng Scranton đến khi sẵn sàng được sử dụng.
Nhà máy Scranton đã hoạt động 24/7 trong tuần và tăng ca vào cuối tuần, nhưng chưa rõ có thể tăng sản lượng đến mức nào. Nếu quá trình tăng tốc sản xuất quốc phòng Mỹ diễn ra không đủ nhanh, chiến sự sắp tới được dự báo sẽ rất khó khăn đối với Ukraine.
Xung đột Ukraine "đã mang đến những mường tượng ban đầu về điều mà chúng tôi cần đánh giá, xem xét lại", Kea Matory, giám đốc chính sách lập pháp tại Hiệp hội Công nghiệp Quốc phòng Mỹ, cho biết. "Vì vậy, đây là một cơ hội rút kinh nghiệm tốt đối với chúng tôi".
Vũ Hoàng (Theo Washington Post)