Đường lây truyền bệnh
Bác sĩ chuyên khoa I Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC, cho biết, bệnh bạch hầu (diphtheria) là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu do ngoại độc tố của vi khuẩn corynebacterium diphtheria gây ra.
Bác sĩ Bạch Thị Chính chia sẻ thêm, bệnh có thể lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp khi tiếp xúc với đồ chơi, vật dụng có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Tốc độ lây lan rất nhanh, có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da. Người bệnh thường đào thải vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, thời kỳ lây bệnh có thể kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn. Người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ vài ngày đến 3-4 tuần.
Những đối tượng dễ mắc bệnh
Hiện nay, bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, do đó, người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vaccine và tiếp xúc với mầm bệnh. Đối tượng dễ mắc bệnh gồm:
- Người ở mọi độ tuổi có tiếp xúc với người bị nhiễm bạch hầu, đi du lịch đến các vùng dịch tễ của bệnh bạch hầu nhưng chưa được tiêm phòng vaccine.
- Đối với trẻ sơ sinh: thường có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không mắc bệnh. Tuy nhiên, miễn dịch sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng đến một tuổi nên trẻ sẽ có nguy cơ mắc bệnh nếu không tiêm vaccine.
- Ở trẻ em dưới 15 tuổi dễ mắc bệnh nếu chưa có miễn dịch.
Theo bác sĩ Bạch Thị Chính, sau khi mắc bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời tuy nhiên với những nhóm người suy giảm miễn dịch tỷ lệ tái nhiễm 2-5%. Miễn dịch bảo vệ sau tiêm vaccine thường kéo dài khoảng 10 năm, hiệu quả bảo vệ của vaccine lên đến 97% nhưng giảm dần theo thời gian. Nếu không tiêm nhắc lại vẫn có thể mắc bệnh.
Triệu chứng thường gặp
Bác sĩ Bạch Thị Chính cho biết, tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, bệnh bạch hầu sẽ có các biểu hiện khác nhau:
Bệnh bạch hầu mũi trước: bệnh nhân sổ mũi, chảy mũi ra chất mủ nhầy đôi khi có lẫn máu. Khi khám bác sĩ có thể thấy màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh này thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bệnh bạch hầu họng và amidan: bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2-3 ngày, sẽ xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amidan hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Thường thể bệnh này các độc tố ngấm vào máu nhiều và có thể gây tình trạng nhiễm độc toàn thân.
Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Các bệnh nhân này nếu không được điều trị tích cực có thể tử vong trong vòng 6-10 ngày.
Bạch hầu thanh quản: là thể bệnh tiến triển nhanh và rất nguy hiểm. Bệnh nhân thường biểu hiện bằng dấu hiệu sốt, khàn tiếng, ho nhiều. Khi khám, bác sĩ có thể thấy các giả mạc tại ngay thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được xử trí kịp thời, các giả mạc này có thể gây tắc đường thở làm bệnh nhân suy hô hấp và có nguy cơ tử vong nhanh chóng.
Bạch hầu các vị trí khác: thường rất hiếm gặp và nhẹ, vi khuẩn bạch hầu có thể gây loét ở da, niêm mạc như niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai.
Biến chứng nguy hiểm
Tất cả các biến chứng của bệnh bạch hầu kể cả tử vong đều là hậu quả của độc tố. Biến chứng thường gặp nhất trong bệnh bạch hầu là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh. Biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra trong giai đoạn toàn phát của bệnh hoặc cũng có thể xảy ra chậm vài tuần sau khi bệnh đã khỏi. Khi viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tiên lượng có tỷ lệ tử vong cao.
Biến chứng viêm dây thần kinh thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và thường hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì biến chứng khác. Liệt màn khẩu cái (màn hầu) thường xuất hiện vào tuần thứ ba của bệnh. Liệt các dây thần kinh vận nhãn, cơ chi và liệt cơ hoành có thể xảy ra vào tuần thứ năm của bệnh. Viêm phổi và suy hô hấp có thể xuất hiện do hậu quả của liệt cơ hoành.
Các biến chứng khác có thể xảy ra như viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp do tắc nghẽn đường hô hấp có thể xảy ra ở trẻ em, nhất là nhũ nhi.
Điều trị và phòng bệnh bạch hầu
Theo bác sĩ Bạch Thị Chính, hiện nay đã có thuốc để điều trị bệnh bạch hầu, tuy nhiên, trong giai đoạn tiến triển, bệnh bạch hầu có thể gây hại cho tim, thận và hệ thần kinh của người bệnh. Ngay cả khi điều trị, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong với tỷ lệ 3% những người mắc bệnh bạch hầu tử vong, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ em dưới 15 tuổi.
Bệnh có thể phòng ngừa được bằng biện pháp tiêm phòng vaccine. Tại Việt Nam hiện nay không có vaccine đơn phòng bệnh bạch hầu, chỉ có vaccine phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu.
Vaccine trong chương trình tiêm chủng quốc gia:
- Vaccine 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - Hib - viêm gan B (DPT-VGB-Hib): tiêm khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi.
- Vaccine bạch hầu - ho gà - uốn ván: tiêm khi trẻ 16-18 tháng tuổi.
- Vaccine bạch hầu - uốn ván cho nhóm đối tượng người lớn có nguy cơ cao, chỉ được sử dụng trong chiến dịch khi có dịch bệnh chứ không tiêm phổ cập.
Vaccine dịch vụ:
- Vaccine 6 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - bại liệt - Hib - viêm gan B hoặc vaccine 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - Hib - bại liệt : tiêm khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi và khi trẻ 16-18 tháng tuổi.
- Vaccine 4 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - bại liệt: khi trẻ 4-6 tuổi.
- Vaccine phòng bệnh bạch hầu - ho gà – uốn ván: đối với trẻ trên 4 tuổi và người lớn, thường được khuyến cáo tiêm nhắc mỗi 10 năm một lần.
Ngọc An