Theo PGS Mai Quỳnh Nam, lý do quan trọng nhất là người làm khoa học đã không chịu đọc, nghiên cứu kỹ lưỡng các tạp chí quốc tế uy tín.
Sung sướng vì nghiên cứu vật liệu nano mới được công bố, nhưng ngay sau đó chị Hương tiếc nuối vì không thể đăng ký sở hữu trí tuệ.
Trong quy trình năm bước, khâu xét duyệt là khó khăn nhất bởi quyết định bài báo có được công bố hay không.
Công bố nghiên cứu trên các tạp chí/tập san quốc tế được xem như sinh mệnh của nhà khoa học, nhưng không phải tạp chí nào cũng giá trị.
Tiến sĩ Phạm Thanh Phong được ghi nhận là "người có đóng góp xuất sắc trong bình duyệt khoa học'.
Việt Nam đang ở giai đoạn xây dựng, với đặc điểm là nghiên cứu khoa học tăng nhanh và tỷ trọng hợp tác quốc tế cao nhưng còn lệ thuộc.
Muốn có bài báo trên ISI, khoa học Việt cần học tập các nước phương Tây, luôn xác định "công bố hay là chết".
Hạn chế ngôn ngữ, bản tính trì trệ, khó khăn về tài chính... là những lý do khiến Việt Nam ít có công bố quốc tế.
Trong năm năm qua, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam tăng lên nhưng vẫn còn kém xa so với các nước trong khu vực.
Bên cạnh sản phẩm thương mại cao, khối kỹ thuật công nghệ luôn có tỷ lệ công bố quốc tế cao hơn nông lâm hay khoa học xã hội.
Lo ngại ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, khoảng cách về chế độ chính trị và sự liên thông trong khoa học xã hội không dễ dàng là những lý do được lãnh đạo Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam nêu ra khi có ít nghiên cứu công bố quốc tế.