Trả lời:
Theo y học cổ truyền, sừng tê giác vị chua mặn, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt, lương huyết, định kinh, giải độc và cầm máu, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như thương hàn ôn dịch, co giật, sốt vàng da, ban chẩn, thổ huyết, chảy máu cam, ung độc... Sách Ôn nhiệt kinh vĩ khuyên phối hợp sừng tê giác với sinh địa, thạch xương bồ, hoàng cầm, liên kiều, kim ngân hoa, huyền sâm, thiên hoa phấn... để chữa chứng sốt dịch mùa hè có co giật, phát ban, lưỡi khô màu đỏ tía, rêu lưỡi đen.
Sách Thánh huệ phương khuyên phối hợp sừng tê giác với thăng ma, hoàng bá, hoàng cầm, đại hoàng... để chữa chứng hầu họng sưng đau, phát sốt, miệng lưỡi lở loét không ăn được. Sách Thánh tễ tổng lục cho biết có thể dùng sừng tê giác phối hợp với hoạt thạch, hoàng liên, hạnh nhân... để chữa chứng đau mắt đỏ.
Kết quả nghiên cứu dược lý học hiện đại (thử nghiệm trên động vật) cho thấy, sừng tê giác có tác dụng làm hưng phấn cơ tim, tăng sức co bóp, tăng nhịp và tăng cung lượng tim, giải nhiệt, trấn tĩnh, chống co giật. Nó cũng làm tăng số lượng tiểu cầu, rút ngắn thời gian đông máu; giảm thấp tỷ lệ tử vong do độc tố của trực khuẩn E.coli. Trên lâm sàng, các nhà y học cổ truyền Trung Quốc đã nghiên cứu dùng sừng tê giác điều trị viêm não do virus, dị ứng, cấp cứu ngộ độc cà độc dược.
Tuy nhiên, theo tôi được biết, cả trong và ngoài nước chưa có công trình nghiên cứu nào sử dụng tê giác để điều trị ung thư cả.
BS Khánh Hiển, Sức Khỏe & Đời Sống