X-quang ngày nay rất phổ biến, gần như bệnh viện nào cũng có, đã giúp chẩn đoán cho hàng trăm triệu bệnh nhân trên thế giới mỗi ngày. Hầu hết mọi người đều từng chụp X-quang ít nhất một lần trong cuộc đời. Tuy nhiên vào thời trước thế chiến thứ nhất, chưa ai biết đến phương pháp này. Trong chiến tranh, những tai nạn thương tích rất nhiều nhưng lại không có phương tiện chẩn đoán chuẩn xác. Tất cả trường hợp gãy xương đều được khám qua sờ nắn nên dễ bỏ sót. Rất nhiều binh lính đã chết vì không được phát hiện các thương tổn gãy xương.
Trong một lần làm thí nghiệm với chất phóng xạ radium, nữ bác học Marie Curie tình cờ phát hiện một tấm ảnh âm bản xương bàn tay của mình được in phản chiếu lên một tờ giấy ghi nhận chất phóng xạ. Bà đã mô tả rằng: Nhờ chất phóng xạ xuyên thấu cơ thể con người nên có thể giúp phát hiện tình trạng thương tổn của xương.
Trong thế chiến thứ nhất, Marie Curie đã vận động các tổ chức quân sự và bệnh viện trang bị máy chụp tia phóng xạ X di động để chẩn đoán bệnh cho các thương binh. Những máy này được cung cấp lực từ xạ khí radium, một khí không màu (sau này được gọi là radon). Marie Curie đã lấy khí từ radium đã tinh chế rồi chia ra cho nhiều máy chụp với hy vọng cứu chữa được nhiều bệnh nhân hơn. Chiến tranh nổ ra, bà bán huy chương Nobel bằng vàng của mình và chồng để giúp đỡ binh lính. Nhờ đó hơn 200 phòng quang tuyến được thiết lập, cứu hơn một triệu người bị thương.
Ngày nay, chất phóng xạ và quang tuyến tia X được dùng trong ngành y, khảo cổ, địa chất và phục vụ cho việc trùng tu những tác phẩm nghệ thuật hoặc bảo quản thức ăn. Hằng ngày trên toàn thế giới có hàng trăm triệu người được chụp X-quang. Dựa trên nền tảng cơ bản này mà các máy chụp cắt lớp vi tính (CTscan) và xạ trị ra đời để chẩn đoán chữa trị cho bệnh nhân ung thư.
Marie Curie còn nhận thấy các tia xuất phát từ cấu trúc nguyên tử của nguyên tố nên sẽ không thay đổi bất kể trong điều kiện nào hay hình dạng của khoáng chất phóng xạ ra sao. Phát hiện mang tính đột phá ấy đã mở đường cho lĩnh vực vật lý nguyên tử. Bà trở thành người đưa ra khái niệm phóng xạ để mô tả hiện tượng này và là một trong những người đầu tiên đặt nền tảng cho ngành vật lý nguyên tử.
Những năm tháng miệt mài làm việc và nghiên cứu với các chất phóng xạ đã ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của Marie, bà bị thiếu máu trầm trọng. Sau khi xét nghiệm các bác sĩ đã phát hiện nhà bác học bị ung thư bạch cầu được cho là kết quả của việc tiếp xúc với lượng bức xạ quá cao trong thời gian dài. Marie Cuire kể hàng ngày thường tiến hành thử nghiệm với các ống có chứa đồng vị phóng xạ để trong túi quần, ngăn bàn. Trong một khoảng thời gian dài làm việc với phóng xạ mà không có biện pháp an toàn nào, bà đã bị nhiễm độc phóng xạ nặng.
Cuối đời Marie bị mù lòa do đục thủy tinh thể và thiếu máu nghiêm trọng đã dẫn đến suy kiệt. Năm 1934, bà được đưa đến Viện điều dưỡng Sancellemoz ở Passy và qua đời ngày 4/7/1934. Năm 1995, tro cốt của vợ chồng bà được đưa vào điện thờ Panthéon ở Paris. Đó là nơi an nghỉ của những vĩ nhân làm rạng danh nước Pháp và nhân loại. Đến nay. Marie là người phụ nữ đầu tiên và duy nhất tại đền thờ này.
Lịch sử y học thế giới có đoạn viết: Marie Curie là nữ bác học vĩ đại nhất có đóng góp rất to lớn cho ngành y khoa đương đại. Nhờ sự hy sinh to lớn ấy mà hàng tỷ người ngày nay được hưởng lợi từ phương pháp chụp X-quang và xạ trị điều trị ung thư từ những nền tảng bà đã phát minh ra. Nữ bác học đã chết vì bệnh ung thư và để đem lại sự sống cho các bệnh nhân ung thư. Ngày nay, nhiều viện nghiên cứu và cơ sở giáo dục, trung tâm y tế trên thế giới được đặt theo tên của Marie Curie để khắc ghi công lao to lớn của bà.
>> Xem thêm tiểu sử của nhà bác học Marie Curie
Minh Đức - Thi Trân