Thi thể Miriam, 47 tuổi, được phát hiện tại nhà riêng vào chiều chủ nhật (17/1/1999), trong vũng máu trên sàn phòng bếp. Gần đó là chiếc điện thoại bàn không dây.
Miriam tử vong do trúng phát đạn duy nhất xuyên tim. Viên đạn mau chóng được xác định bắn ra từ con suối cạn cách đó khoảng 22 m. Trên nền tuyết quanh khu vực này có dấu giày thể thao cỡ 14 dẫn đến một cái cây có thể cho xạ thủ tầm nhìn trực diện vào cửa sổ nhà bếp. Gần cái cây còn có tóp thuốc lá bị nghi do hung thủ bỏ lại.
Dấu giày trên tuyết dẫn đến đường chính mất dấu nhưng trên đoạn đường này, cảnh sát tìm thấy nòng giảm thanh tự chế cho súng trường dùng cỡ đạn 5,6 mm, trong nòng súng có ba sợi tóc.
Chiếc điện thoại không dây bên cạnh thi thể giúp cảnh sát biết chính xác thời điểm xảy ra vụ án là 22h37 ngày 15/1/1999. Một người bạn cho biết lúc đó đang nói chuyện với Miriam thì nghe thấy tiếng kính vỡ và tiếng phụ nữ rên qua điện thoại. Người này tưởng điện thoại bị chuyển tín hiệu sang nhà người khác do ảnh hưởng của cơn bão tuyết vừa qua nên dập máy và gọi lại. Thấy máy bận, người bạn cho rằng bị mất tín hiệu nên để lại tin nhắn thoại.
Bước đầu, cảnh sát nhận định sát thủ đỗ xe bên đường chính rồi đi bộ trên tuyết tới con suối cạn. Lúc đó tối trời nhưng rèm cửa nhà bếp được mở tung, sát thủ chỉ cần bắn một phát đạn. Gây án xong, hắn vứt nòng giảm thanh trên đường ra xe.
Miriam sống ở thành phố Williamsport, bang Pennsylvania với con trai ba tuổi. Chồng Miriam là Richard Illes, bác sĩ phẫu thuật tim nổi tiếng trong vùng, nhưng đang hoàn tất thủ tục ly hôn. Hai người gặp nhau khoảng năm 1990 khi Miriam làm phụ tá phẫu thuật cho Richard tại bệnh viện. Khi con được hai tuổi, Miriam nghỉ việc làm nội trợ toàn thời gian.
Một năm trước, Miriam phát hiện Richard ngoại tình với nữ y tá mới, người được cô tuyển dụng để thế chỗ mình. Tháng 3/1998, Miriam đâm đơn ly hôn và đưa con trai ra ở riêng. Theo thỏa thuận tạm thời, Miriam được nuôi con chính, Richard trông con từ tối thứ Sáu đến hết cuối tuần. Khi vụ án xảy ra, bé trai 5 tuổi đang ở với bố.
Khoảng 17h ngày 17/1/1999, Richard đưa con về nhà vợ. "Mọi người tìm thấy chứng cứ gì rồi?", Richard lập tức hỏi khi hay tin Miriam bị sát hại.
Richard khai đã đón con vào lúc 17h ngày 15/1/1999, về văn phòng làm nốt việc rồi đưa con đi mua đồ ăn mang về nhà vào khoảng 18h30-19h. Tới 21h30, Richard lái xe đưa con sang họ hàng bên nội. Trên đường đi, hai cha con dừng tại tiệm đồ ăn nhanh McDonalds, cách nhà Miriam khoảng 35 dặm.
Khoảng 23h30, Richard gọi cho chị gái nói sẽ nghỉ trọ dọc đường. Sau cuộc gọi, ông không tìm được nơi còn phòng nên phải đi tiếp tới một giờ sáng hôm sau mới có phòng tại thành phố Harrisburg, cách thị trấn Williamsport 84 dặm. Thứ bảy và chủ nhật, hai cha con lần lượt thăm bác gái và ông nội rồi về.
Cảnh sát bấm giờ hành trình của Richard lần lượt trong điều kiện thời tiết tốt và xấu. Kết quả cho thấy quãng đường và thời gian di chuyển theo lời khai của Richard không trùng khớp. Một số nhân chứng tại tiệm McDonalds nói có nhìn thấy Richard nhưng không thể chắc chắn về mốc thời gian.
Sự nghi ngờ của cảnh sát đổ vào Richard. Từ trước khi có việc ngoại tình, hôn nhân của Richard và nạn nhân đã gặp vấn đề do ông kiểm soát vợ và muốn mọi thứ đúng ý mình. Hai bên chưa phân chia tài sản nhưng Richard đã bị buộc phải trả 13.000 USD tiền cấp dưỡng mỗi tháng cho vợ nên đây có thể là động cơ gây án. Richard cũng có kinh nghiệm dùng và sửa chữa súng nên có khả năng tự chế nòng giảm thanh và ngắm bắn chính xác.
Trước cáo buộc giết vợ, Richard khẳng định không có động cơ gây án vì khoản tiền cấp dưỡng không phải vấn đề lớn so với thu nhập của một bác sĩ phẫu thuật tim như mình. "Trong tay tôi có rất nhiều tiền. Lối sống của tôi không bị bó hẹp", Richard nói.
Trong lúc chờ kết quả xét nghiệm ADN, cảnh sát khám nhà Richard. Nhà kho của căn biệt thự có nhiều thiết bị và dụng cụ như máy khoan, máy cưa, keo dính, dây thép, ống PVC, và nòng súng có lỗ khoan,... Những thứ này có thể được dùng chế nòng giảm thanh. Trên tủ cạnh giường ngủ là cuốn sách có vẻ đang được đọc dở với tựa đề "Hướng dẫn phân tích chữ viết từ FBI". Cảnh sát thấy lạ khi bác sĩ phẫu thuật tim đọc sách này.
Vài ngày sau khi Richard nhận danh sách những đồ bị thu giữ, luật sư của ông nhận được lá thư nặc danh. Trong thư, người viết tự nhận giết Miriam vì chị là kẻ phân biệt chủng tộc, ở dưới ký tên là "chiến binh của Chúa, của Bình đẳng, và của Cái chết".
Lá thư thứ hai tới vào tháng 5/1999, bốn tháng sau vụ án mạng. Lần này, người viết cho biết đã đột nhập nhà Richard để dùng dụng cụ tại đây chế nòng giảm thanh. Tác giả mô tả bản thân có đặc điểm trùng khớp với một bác sĩ làm cùng Richard. Tuy nhiên, người này được loại khỏi diện tình nghi vì là bạn tốt với Miriam và có chứng cứ ngoại phạm vững chắc.
Cả hai lá thư đều được viết bằng bút chì và dùng chữ in hoa, giống như lời khuyên trong cuốn sách dạy cách phân tích chữ viết của Richard. "Chữ bằng bút chì khó bị truy gốc, chữ in hoa gây khó khăn cho việc giám định chữ viết", một cảnh sát nói.
Cảnh sát ý thức được rằng có kẻ đang cung cấp manh mối giả nhằm đánh lạc hướng điều tra. Nhận định này càng được củng cố khi có kết quả đối chiếu ADN. ADN của ba sợi tóc trong nòng giảm thanh không trùng nhau và cũng không trùng với ADN từ tóp thuốc ở hiện trường hoặc từ sợi tóc dính trên phong bì thư nặc danh.
Nếu theo chứng cứ ADN, có tới 5 người có liên quan tới vụ án nhưng không người nào là bác sĩ Richard. Điều này khiến cảnh sát đi đến kết luận rõ ràng có kẻ cố ý tạo chứng cứ giả. Dù vậy, không có chứng cứ liên kết Richard với tội ác.
Manh mối mới tới vào tháng 6/1999. Người dân đi câu phát hiện khẩu súng trường cũ bị vứt trong rừng, cách con đường Richard nói đã đi qua khi chở con đến nhà nội vào tối 15/1/1999 khoảng 400 m. Đây cũng là khu vực đồi núi vắng vẻ đầu tiên trên đường Richard đi đến nhà nội.
Đây là mẫu súng cũ, đã ngừng kinh doanh từ năm 1949, trước thời điểm nhà nước yêu cầu ghi chép giao dịch mua bán súng. Khẩu súng này bị cưa nòng và báng, số sê-ri cũng bị mài mất. Khẩu súng chứa loại đạn cùng cỡ 5,6 mm và có đặc điểm phù hợp với viên đạn giết Miriam. Đặc biệt, nòng giảm thanh bị hung thủ vứt lại khớp hoàn toàn với khẩu súng này. Cảnh sát tin rằng đây chính là hung khí.
Gần một năm sau khi tìm thấy khẩu súng, cảnh sát bắt gặp ảnh chụp bố đỡ đầu đã khuất của Richard, người di chúc cho vị bác sĩ toàn bộ súng săn. Trong ảnh, người bố đỡ đầu một tay cầm con nhím, tay kia cầm súng giống hệt khẩu trong tay cảnh sát. Đây được cho là chứng cứ liên hệ Richard với hung khí.
Hai tháng sau, rất gần nơi tìm thấy khẩu súng, cảnh sát tiếp tục tìm thấy đôi giày thể thao bị vứt bỏ, cùng cỡ với dấu giày trên nền tuyết tại hiện trường.
Tuy nhiên, công tố viên cho rằng vẫn chưa đủ chứng cứ khởi tố Richard, người 6 tháng sau cái chết của vợ đã cưới nữ y tá mà ông từng có quan hệ ngoài luồng. Tháng 11/2000, Richard chuyển nhà đển thành phố Laredo, bang Texas, nơi rất gần biên giới với Mexico. Cảnh sát không khỏi lo ngại khả năng Richard muốn trốn.
Khi công việc tại Laredo không ổn, Richard lại xin việc ở thành phố Spokane, bang Washington. Sau khi Richard gửi đơn xin việc, bệnh viện nơi đây nhận được bưu phẩm nặc danh đựng đầy những mẩu báo về vụ án của Miriam cũng như độ tình nghi của Richard. Cuối cùng, Richard không được nhận vào làm. Từ đó, mỗi khi Richard xin việc làm bác sĩ phẫu thuật tim ở đâu, bệnh viện nơi ấy lại nhận được những mẩu báo tương tự. Richard buộc phải chuyển sang làm bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ.
Gần hai năm sau vụ án mạng, cảnh sát mới có thể phỏng vấn con của Richard về tối hôm ấy vì Richard nhất quyết yêu cầu phải có mặt chuyên gia tâm lý học trẻ em. Nhưng do khoảng cách thời gian và độ tuổi, cậu bé không thể xác thực thông tin gì quan trọng. Dù vậy, tới tháng 12/2002, công tố viên vẫn nhận định đã đủ chứng cứ truy tố Richard trong cái chết của Miriam. Cùng tháng ấy, Richard bị người vợ thứ hai ly dị.
Khám nhà mới của Richard tại thành phố Spokane, cảnh sát phát hiện trong máy tính có lưu bản thảo tiểu thuyết có tựa đề "Phát đạn xuyên tâm: Cái chết của người vợ bác sĩ", tác giả được đề tên là Richard Illes. Mọi nhân vật trong truyện đều có cùng tên như trong cuộc điều tra ngoài đời.
Khi được hỏi tại sao viết truyện từ góc nhìn của sát thủ, Richard nói cho rằng điều này sẽ khiến nhiều người chú ý hơn, qua đó phổ biến những tình tiết không được cảnh sát công bố. Nhưng theo công tố viên, cuốn tiểu thuyết gần như là cách Richard trút nỗi lòng sau khi tin rằng đã thực hiện tội phạm hoàn hảo.
Ngoài cuốn tiểu thuyết, sợi vải trên đôi giày thể thao bị vứt gần khẩu súng cũng được xác định là khớp với sợi vải tìm thấy trong máy hút bụi nhà Richard.
Phiên xử Richard diễn ra vào tháng 1/2004, 5 năm sau khi vụ án mạng xảy ra. Công tố viên cáo buộc Richard giết vợ vì muốn chiếm quyền nuôi con và không phải trả 13.000 USD tiền cấp dưỡng mỗi tháng. Tối hôm ấy, Richard đưa con trai đi ăn ở tiệm McDonalds để nhân chứng thấy hai bố con đang trên đường rời thị trấn. Trong bữa, ông ta cho con uống thuốc ngủ thường dùng để gây mê bệnh nhân rồi vòng về nhà Miriam, gây án rồi mới lên đường đến nhà nội. Trên đường, Richard tạt sang chỗ vắng vẻ để phi tang khẩu súng cùng đôi giày.
Phía bào chữa không gọi Richard ra làm chứng. Luật sư chỉ ra rằng đôi giày cảnh sát tìm thấy có cỡ 14, trong khi Richard đi giày cỡ 9,5 nên không phải là hung thủ.
Phản bác, công tố viên khẳng định Richard hoàn toàn có thể đi giày cỡ lớn hơn để đánh lạc hướng điều tra. Việc hung thủ cố ý đánh lạc hướng điều tra cũng có thể giải thích được tại sao ADN từ nòng giảm thanh và tóp thuốc lá thuộc về nhiều người khác nhau. Theo công tố viên, Richard có thể đã lấy tóc của bệnh nhân cho vào các vật chứng rồi cố ý bỏ lại tại hiện trường.
Dù chỉ có chứng cứ gián tiếp, công tố viên đã truy tố thành công. Sau 5 tuần xét xử, Richard bị kết tội Giết người cấp độ I và lãnh án chung thân.
Công tố viên tin rằng chứng cứ hữu ích nhất trong vụ án chính là cuộc gọi cuối cùng của Miriam với bạn. Nếu không có cuộc gọi ấy, điều tra viên sẽ không bao giờ biết chính xác thời điểm vụ án xảy ra. "Tôi tin rằng sát thủ không biết nạn nhân đang nói chuyện điện thoại, một trong những sai lầm chết người của hắn trong vụ án này", công tố viên nói.
Quốc Đạt (Theo CBS News, AP)