Trong cuốn Đế quốc An Nam và người dân An Nam - tập hợp bài báo của các tác giả Pháp khuyết danh, thông tin về các loại nhạc cụ cổ truyền Việt Nam đầu thế kỷ 19 được ghi chép chi tiết.
Ở chương bốn mang tên "Kiến thức, kỹ nghệ, hoạt động tiêu khiển", sách giới thiệu qua về sân khấu cổ truyền Việt Nam với hai loại hình gánh hát là phường nhà trò và phường chèo, trước khi đi sâu mô tả một số loại đàn truyền thống.
Thập lục huyền (đàn tranh) được giới thiệu là loại nhạc cụ có mười sáu dây kim loại căng trên ngựa đàn bằng gỗ, ngà hoặc sừng. Các ngựa này gắn trên một thân cây rỗng, dài bốn thước (mỗi thước khoảng 40 cm), rộng tám tấc. Người chơi gẩy các dây bằng một móng sắt gắn vào ngón trỏ hoặc ngón cái.
Bằng kiến thức âm nhạc châu Âu, tác giả một bài viết so sánh: "Âm thanh nhạc cụ này dễ nghe nhất và giống với âm của đàn phong cầm Argentina, hòa hợp tuyệt diệu với giọng ngâm các đoạn thơ trong ngôn ngữ đơn âm và được hòa với nhau".
Sau đàn tranh, đàn nhị được mô tả: "Đàn nhị huyền hoặc đàn hai dây, cần đàn dài gắn trên một mẩu sừng hoặc ống tre rỗng dạng bầu loa và được bịt lại bằng một lớp da rắn, bên cạnh gắn hai dây. Người chơi với cây vĩ (ắc sê) tết bằng lụa, kéo vào giữa dây. Âm thanh, có lẽ kém mạnh so với đàn violin châu Âu, nhưng dễ chịu và thấm thía". Đàn tam huyền, lục huyền cũng được giới thiệu.
Cuối cùng, tromg loạt bài về hoạt động tiêu khiển của người An Nam, các nhà báo người Pháp dành nhiều lời để nói về đàn bầu. "Độc huyền cầm được làm bằng một đoạn tre lớn cắt một nửa và ở một đầu bắc qua một cái cần, đầu kia sợi dây sắt kéo đến cột vào ở phần tận cùng của cần này, làm nó rất linh hoạt, và người ta nhích nhẹ qua cách mở các ngón tay được điều chỉnh trong khi sợi dây được gẩy bằng một chốt bằng gỗ. Âm thanh nhạc cụ này đầy cảm xúc và tinh tế, nó phù hợp hoàn hảo để bắt chước tiếng oe oe của đứa trẻ hay tiếng thở dài phiền muộn của người mẹ. Và ban đêm, khi đi xa, người ta thích nghe nho sĩ hoặc thợ cày khơi dậy sự u tịch nơi trú ngụ và giải sầu đôi chút", một tác giả viết.
Về các nhạc cụ hơi của Việt Nam, loạt bài ghi nhận "người ta chỉ thấy sáo trúc". Với bộ gõ, họ miêu tả trong các loại trống có một loại "dài và vỗ bằng tay" (trống cơm), bên cạnh các nhạc cụ khác như sanh, trắc, hoặc các mõ gỗ và que tiền xu (sanh tiền) dùng để đánh nhịp.
"Nói chung, phường nhà trò hay kép độc chỉ chơi những nhạc cụ dây, là những nhạc cụ cao quý nhất, mà họ sử dụng để đệm theo câu của những đoạn thơ", một bài viết kết luận.
Người viết cũng cho biết phường nhà trò là những kép hài có địa vị và phẩm tước của triều đình. Họ gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em, những người có đất đai, lập nên một làng nghề phục vụ nhà vua. Hàng năm, họ diễn một số chủ đề cho hí viện của nhà vua. Nhờ việc này, họ độc quyền về tuồng kịch ở một huyện hoặc một tỉnh và có thể đưa yêu sách cho mọi buổi trình diễn lớn tại các địa phương.
Theo các ghi chép bằng tiếng Pháp trong bài báo, phường nhà trò được phiên chế với các cấp đội trưởng, nhất âm, đệ nhất âm, đệ nhị âm, cai và bếp như trong quân đội. Họ dành cả đời cật lực trong lĩnh vực của mình, luyện tập chơi nhạc cụ và nói ca.
Loạt bài báo này đăng trên tờ Courrier de Saigon mang tên chung là Aperçu sur la géographie, les productions, l'industrie, les moeurs et les coutumes de l'Annam (Tổng quan về địa lý, sản vật, kỹ nghệ, phong tục và tập quán An Nam), đăng trong hai năm 1875 và 1876, xuất bản dưới sự bảo trợ của chính quyền thuộc địa. Năm 1889, Chánh tham biện Pháp ở Nam kỳ, Giáo sư học viện Khoa học Chính trị Jules Sivestre thu thập bản in trên báo và xuất bản thành sách. Nghiên cứu này không ghi tên tác giả nhưng chứa đựng những thông tin, tóm tắt những quan sát của người Pháp về Việt Nam cuối thế kỷ 19.
Lê Tiên Long