Trả lời:
Vi khuẩn bạch hầu có tên khoa học là Corynebacterium diphtheria, diphtheria trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là màng giả mạc. Không phải chủng vi khuẩn bạch hầu nào cũng gây bệnh, độc tính gây tử vong là do ngoại độc tố.
Ngoại độc tố là độc tố do vi khuẩn tiết ra trong quá trình sinh trưởng. Khi độc tố được tiết ra, chúng sẽ xâm nhập vào các tế bào ở trong cơ thể, phá hủy sự phát triển các chuỗi protein của tế bào đó và gây hoại tử tế bào. Tính độc và gây tử vong phụ thuộc vào loại độc tố và vị trí gây bệnh.
Nguyên nhân tử vong khi bệnh nhân nhiễm độc tố của bạch hầu, nguyên nhân thứ nhất do vị trí đường hô hấp. Độc tố do vi khuẩn tiết ra có thể gây viêm loét ở vùng mũi, vùng hầu họng và sau đó có thể tạo thành màng giả mạc. Màng giả mạc dày, dính chắc vào trong amidan hầu họng, thanh quản của bệnh nhân và bít tắt thanh khí quản, gây khó thở, dẫn đến tử vong.
Nguyên nhân thứ hai gây tử vong là do độc tố ảnh hưởng đến tim, gây ra tình trạng viêm cơ tim. Những vấn đề viêm cơ tim có thể gây trụy tim mạch, rối loạn nhịp tim và thậm chí suy tim, dẫn đến tử vong.
Nguyên nhân thứ ba, độc tố gây biến chứng lên hệ thần kinh, có thể phá hủy bao myelin của dây thần kinh. Việc phá hủy bao myelin gây viêm dây thần kinh, tổn thương không chỉ dây thần kinh trên sọ não mà cả những dây thần kinh ngoại biên. Những dây thần kinh này chi phối hỗ trợ hô hấp, có thể gây liệt cơ hoành, liệt các cơ hỗ trợ hô hấp, thậm chí có thể gây liệt toàn thân và tổn thương vận động. Tổn thương, liệt dây thần kinh có thể cản trở đường hô hấp, khiến bệnh nhân tử vong. Ngoài ra, biến chứng lên thận có thể gây suy thận cấp, thúc đẩy tình trạng nhiễm độc toàn thân và bệnh nhân có thể tử vong.
Những nhóm người có nguy cơ tử vong cao thường dưới 15 tuổi và người trên 40 tuổi; nhóm người có biến chứng thận và tim mạch; người bị suy giảm miễn dịch hoặc bệnh nhân đang có đặt những phương tiện hỗ trợ trong cơ thể ví dụ thay van tim nhân tạo hoặc đặt shunt ở não thất một nhánh nối thông, đặt catheter ở tĩnh mạch. Tất cả những nguyên nhân đó sẽ thúc đẩy nguy cơ tử vong của bệnh nhân bị bệnh bạch hầu cao hơn.
Hiện nay, có nhiều loại vaccine có thể phòng bệnh bạch hầu, phù hợp với mọi độ tuổi.
Chương trình tiêm chủng quốc gia có vaccine phối hợp 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, Hib, viêm gan B dành cho trẻ 2 tháng, 3 tháng, 4 tháng. Khi trẻ 16-18 tháng tuổi có thể tiêm vaccine phối hợp phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván. Chương trình tiêm chủng quốc gia còn có loại vaccine bạch hầu, uốn ván nhưng vaccine này chỉ tiêm cho trẻ lớn và người lớn trong chiến dịch khi có bệnh bùng phát, không tiêm chủng rộng rãi.
Tiêm chủng dịch vụ có nhiều vaccine phòng bệnh bạch hầu cho cả trẻ em và người lớn. Vaccine 6 trong 1 phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, Hib, viêm gan B cho trẻ 2 tháng, 3 tháng, 4 tháng hoặc vaccine 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, Hib. Khi 16-18 tháng, trẻ cần tiêm nhắc vaccine 6 trong 1 hoặc 5 trong 1.
Khi trẻ vào cấp 1, tiêm một mũi vaccine 4 trong 1 phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt. Lúc trẻ lên cấp 2, tiêm vaccine 3 trong 1 phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván. Trẻ lớn và người lớn có thể tiêm vaccine phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván bất cứ thời điểm nào và cần nhắc lại sau mỗi 10 năm.
Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Hiền Minh
Phó giám đốc Y khoa Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC