Bộ Quốc phòng Anh tuần trước thông báo kế hoạch nâng cấp hệ thống phòng không Sea Viper trên tàu chiến, sau vụ máy bay không người lái (UAV) của lực lượng Houthi lọt qua lưới phòng thủ tầm xa và áp sát tàu khu trục đa năng HMS Diamond, buộc nó khai hỏa pháo 30 mm thuộc hệ thống phòng thủ cực gần để bắn hạ.
Quá trình nâng cấp hệ thống Sea Viper dường như là nỗ lực gấp rút nhằm củng cố lưới phòng không hạm đội của Anh, tránh lặp lại tình huống dẫn tới vụ tàu khu trục HMS Coventry bị đánh chìm trong cuộc chiến Falkland với Argentina năm 1982.
Ngày 2/4/1982, quân đội Argentina phát động chiến dịch tấn công quần đảo Falkland do Anh kiểm soát mà nước này gọi là Malvinas, nằm cách cực nam Argentina khoảng 500 km. Lực lượng Anh đồn trú tại đây nhanh chóng đầu hàng do bị áp đảo về số lượng.

HMS Coventry di chuyển đến khu vực gần quần đảo Falkland hồi năm 1982. Ảnh: BQP Anh
Bộ Quốc phòng Anh sau đó điều động hạm đội hùng hậu, gồm tàu sân bay HMS Hermes và HMS Invincible, nhiều tàu vận tải đổ bộ, khu trục hạm, tàu hộ vệ tên lửa và tàu tuần tra, tới gần Falkland với mục tiêu tái chiếm quần đảo. Nhiệm vụ phòng không tiền phương, bảo vệ hai tàu sân bay được giao cho biên đội tàu khu trục Type 42 gồm HMS Coventry, HMS Sheffield và HMS Glasgow.
Lớp tàu khu trục Type 42 bắt đầu hoạt động từ năm 1975, là mẫu chiến hạm hiện đại nhất của Anh vào thời điểm đó và thường được ví là "hòn ngọc quý" của hải quân nước này. Mỗi chiếc được trang bị 22 tên lửa phòng không tầm xa Sea Dart với khả năng tấn công mục tiêu ở khoảng cách 74 km.
Sau vụ HMS Sheffield bị đánh chìm bởi tên lửa Exocet ngày 10/5/1982, hải quân Anh phải xây dựng chiến thuật phòng không mới để tận dụng lực lượng còn lại. Mỗi tàu khu trục Type 42 sẽ đi kèm với tàu hộ vệ tên lửa Type 22, đồng thời triển khai cách xa hạm đội chủ lực để thu hút chiến đấu cơ Argentina.
Nếu tên lửa Sea Dart trên những chiếc Type 42 không hạ được mục tiêu, tàu hộ vệ Type 22 sẽ khai hỏa tên lửa tầm ngắn Sea Wolf để đánh chặn. Chúng cũng được hỗ trợ bởi phi đội tiêm kích hạm Sea Harrier triển khai từ tàu sân bay, nhằm tạo ra lưới phòng không đa tầng bảo vệ hạm đội.
Chiến thuật này ban đầu tỏ ra hiệu quả, giúp các tàu chiến Anh bắn rơi nhiều phi cơ Argentina. Tuy nhiên, tàu HMS Glasgow sau đó hư hỏng nặng trong một đợt tập kích của Argentina và phải quay về Anh sửa chữa, khiến HMS Coventry trở thành tàu khu trục Type 42 duy nhất còn triển khai gần quần đảo Falkland.
Ngày 25/5, tàu Coventry và Broadsword bắt đầu tuần tra phía tây bắc eo biển Falkland Sound. Vị trí này gần đất liền, khiến radar phòng không khó phát hiện mục tiêu và giảm hiệu quả tác chiến của tên lửa Sea Dart.
Không quân Argentina phát hiện nhóm chiến hạm Anh và mở cuộc tấn công hiệp đồng bằng 4 cường kích hạng nhẹ A-4 Skyhawk. Hai máy bay đầu tiên do đại úy Pablo Carballo và trung úy Carlos Rinkemang điều khiển, mang bom thông thường nặng 450 kg, những chiếc còn lại được trang bị 3 quả bom 250 kg.
Tiêm kích Sea Harrier của Anh xuất kích, bám đuổi biên đội A-4 Skyhawk đầu tiên của Argentina, nhưng phải rút lui để hai chiếm hạm bật radar tìm kiếm mục tiêu. Cường kích Argentina lúc này bay sát mặt biển, khiến radar dẫn bắn của hệ thống Sea Dart trên tàu Coventry không thể phân biệt chúng với đất liền.
HMS Broadsword cố gắng khóa mục tiêu, nhưng hệ thống Sea Wolf cũng không thể bám bắt mục tiêu do biên đội A-4 bay sát nhau. Tổ hợp này cũng bị tê liệt và không thể khởi động lại cho đến khi máy bay Argentina thả bom.
Một trong hai quả bom đánh trúng khoang chứa trực thăng của Broadsword nhưng không phát nổ, chỉ phá hủy phi cơ Lynx bên trong. Thủy thủ đoàn Coventry tuyên bố đã dùng súng bộ binh bắn trúng một chiếc Skyhawk, nhưng cả hai phi cơ đều trở về căn cứ an toàn.

HMS Coventry bị nghiêng sau khi trúng bom của Argentina ngày 25/5/1982. Ảnh: BQP Anh
Biên đội A-4 thứ hai do trung úy Mariano Velasco và thiếu úy Jorge Barrionuevo điều khiển tiếp cận HMS Coventry sau đó 90 giây ở góc lệch 20 độ so với mạn trái chiến hạm.
Thủy thủ đoàn tàu Coventry vẫn không thể khóa được mục tiêu và quyết định phóng bừa một quả tên lửa Sea Dart để xua đuổi đối phương, đồng thời cho tàu chiến ngoặt gấp về bên phải để thu hẹp góc công kích của cường kích đối phương.
Hệ thống Sea Wolf của tàu Broadsword khi đó đã khởi động lại thành công và khóa được mục tiêu vào máy bay Argentina, nhưng cú ngoặt gấp của Coventry khiến nó chắn hoàn toàn góc bắn của tên lửa trên chiến hạm đồng đội.
Pháo tự động Oerlikon 20 mm bên mạn trái HMS Coventry bị kẹt đạn, khiến thủy thủ đoàn chỉ còn súng trường và súng máy để đối phó những cường kích Argentina đang tiếp cận với tốc độ cao. Biên đội Skyhawk cắt bom và nhanh chóng thoát ly, trở về hạ cánh an toàn.
3 quả bom 250 kg đánh trúng mạn trái tàu khu trục Anh, ở vị trí ngay sát mặt biển. Hai quả bom đã phát nổ, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tàu khu trục Anh. Quả đầu tiên phá hủy hoàn toàn khoang máy tính và phòng tác chiến, làm thiệt mạng gần như toàn bộ ban chỉ huy tàu.
Quả thứ hai lao trúng khoang động cơ phía trước, nổ tung bên dưới phòng tập trung lực lượng cứu thương và khiến tàu lập tức nghiêng sang trái. Đây là đòn đánh gây thiệt hại nặng nhất, do quả bom phá thủng tấm ngăn giữa hai khoang động cơ, gây ngập nước mất kiểm soát ở khoảng không gian lớn nhất trên tàu.

Vị trí quần đảo Falkland và một số tàu chiến Anh bị đánh chìm năm 1982. Đồ họa: British Empire
Giới chuyên gia quân sự nhận định thiết kế nhiều khoang kín nước cho phép tàu khu trục lớp Type 42 sống sót khi trúng hai quả bom ở gần như mọi vị trí, chỉ trừ hai khu vực bom phát nổ trong cuộc tấn công ngày 25/5.
Thủy thủ đoàn bỏ tàu trong vòng 20 phút, con tàu bị lật úp và chìm hẳn sau đó không lâu. 170 người sống sót được tàu HMS Broadsword giải cứu.
Vụ tấn công khiến 19 sĩ quan và thủy thủ thiệt mạng tại chỗ, 30 người bị thương. Paul Mills, người bị chấn thương sọ não trong vụ tấn công, qua đời vì biến chứng vào đầu năm 1983.
Vũ Anh (Theo Royal Navy, Express)