![]() |
Trả lời: Khiếm thực còn có tên là kê đầu, khiếm. Tên khoa học Euryale ferox Salisb; thuộc họ súng Nymphaeaceae. Ở Việt Nam hiện nay dùng hai vị thuốc mang tên khiếm thực, vì vậy cần chú ý để phân biệt. 1. Hạt phơi hay sấy khô (Semen Euryales) của cây khiếm thực nói trên. Vị này mới đúng là vị khiếm thực nhưng còn phải nhập của Trung Quốc vì nước ta chưa thấy cây này. 2. Thân, rễ, củ phơi hay sấy khô của cây củ súng nhỏ Nymphaea stellata Wild, cùng họ Súng (Nymphaeaceae). Nhiều người và nhiều nơi vẫn dùng vị này với tên khiếm thực. Mô tả cây khiếm thực chính thức: Là một loại cây mọc ở đầm ao, sống hàng năm, lá hình tròn rộng, nổi trên mặt nước, mặt trên màu xanh, mặt dưới màu tím. Mùa hạ, cành mang hoa trồi lên trên mặt nước, đầu cành có một hoa sáng nở chiều héo. Quả hình cầu, là chất xốp màu tím hồng bẩn, mặt ngoài có gai, đỉnh còn đài sót lại, hạt chắc, hình cầu, màu đen. Ngoài công dụng làm thức ăn, trong Đông y, khiếm thực được coi là một vị thuốc bổ, làm săn (thu liễm), có tác dụng trấn tĩnh, dùng trong các bệnh đau nhức dây thần kinh, tê thấp, đau lưng, đau đầu gối. Nó còn có tác dụng chữa di tinh, tiểu nhiều, phụ nữ khí hư, bạch đới. Theo tài liệu cổ, khiếm thực vị ngọt, chát, tính bình, vào 2 kinh tỳ và thận, có tác dụng bổ tỳ, ích thận, chỉ tả, sáp tinh; chữa di tinh, bạch đới, đại tiện lỏng, tiểu tiện không chủ động. Để chữa thần kinh suy nhược, di mộng tinh, hoạt tinh, lỵ mãn tính, viêm ruột mãn tính, lấy khiếm thực và kim anh tử hai vị bằng nhau, tán nhỏ, thêm mật làm thành viên. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3-5 g. Uống với nước nóng. Nhiều người ở ta vẫn dùng củ súng với tên khiếm thực. Thực tế hai cây khác hẳn nhau, lá cây củ súng có cuống dính vào đáy lá, lá không tròn, lại xẻ. Bộ phận dùng cũng khác nhau, một bên là hạt (khiếm thực thật), một bên là thân rễ (củ súng). Tuy nhiên, cả hai đều có chất tinh bột, các hoạt chất khác chưa rõ. Nhân dân ta nhiều người vẫn dùng củ súng thay khiếm thực. Ngay cả Trung Quốc cũng mua củ súng của ta với tên khiếm thực. GS Đỗ Tất Lợi, Sức Khoẻ & Đời Sống |