Vaccine cúm đã có từ rất lâu và trở nên quen thuộc với nhiều người. Trong bối cảnh dịch Covid-19 đang lây lan nhanh, việc tiêm vaccine phòng cúm càng mang lại nhiều lợi ích cho sức khoẻ.
Đối tượng nên và không nên tiêm phòng cúm
Tất cả mọi người từ 6 tháng tuổi trở lên đều được xem là đối tượng nên chủng ngừa cúm mỗi năm một lần. Tiêm phòng cúm mang lại lợi ích to lớn, giúp cơ thể đề kháng với bệnh cúm, ngăn ngừa tình trạng phải nhập viện liên quan đến căn bệnh này, vaccine cúm cũng giảm nguy cơ tử vong. Theo Trung tâm phòng chống và kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC), trong giai đoạn 2017-2018, tiêm phòng cúm đã ngăn ngừa khoảng 6,2 triệu lượt bệnh nhân cúm, 3,2 triệu lượt khám bệnh liên quan đến cúm, 91.000 ca nhập viện và 5.700 ca tử vong liên quan đến cúm.
Việc tiêm phòng cúm đặc biệt quan trọng với những người có nguy cơ cao gặp biến chứng nghiêm trọng do bệnh cúm gây ra. Hầu hết những người bị bệnh cúm sẽ ở tình trạng nhẹ, không cần chăm sóc y tế hoặc thuốc kháng virus và nhanh chóng hồi phục sau chưa đầy hai tuần. Tuy nhiên, một số người có nhiều khả năng bị biến chứng cúm có thể phải nhập viện và đôi khi dẫn tới tử vong.

Người lớn tuổi là đối tượng cần ưu tiên tiêm vaccine cúm hàng năm. Ảnh: VNVC
Các biến chứng liên quan đến bệnh cúm có thể xảy ra bao gồm viêm phổi, viêm phế quản, suy hô hấp, nhiễm trùng xoang và nhiễm trùng tai. Cúm cũng khiến các vấn đề sức khỏe mãn tính trở nên tồi tệ hơn. Ví dụ, người mắc bệnh hen suyễn mãn tính dễ bị các cơn hen suyễn kịch phát hành hạ nếu mắc bệnh cúm, bệnh nhân suy tim sung huyết mãn tính có thể khiến tình trạng bệnh tồi tệ hơn dưới sự tác động của virus cúm.
Những nhóm người có nhiều khả năng bị các biến chứng nghiêm trọng liên quan đến cúm, được khuyến cáo nên tiêm phòng cúm gồm: người từ 65 tuổi trở lên, phụ nữ mang thai, trẻ em, đặc biệt ở những trẻ dưới 5 tuổi, người bị bệnh hen suyễn, người bị tim mạch và đột quỵ, người bị tiểu đường, người có HIV/AIDS, người bị bệnh ung thư, trẻ em có các vấn đề sức khỏe về thần kinh...
Tuy nhiên có một số nhóm người được khuyến cáo là không nên tiêm phòng cúm gồm: trẻ em dưới 6 tháng tuổi, những người bị dị ứng, có thể phản ứng quá mẫn nặng đến mức đe dọa tính mạng với bất kỳ thành phần nào có trong vaccine cúm, có thể bao gồm gelatin, kháng sinh hoặc các thành phần khác.
Những người bị dị ứng với trứng nghiêm trọng (có các triệu chứng khác ngoài phát ban sau khi tiếp xúc với trứng), những người bị Hội chứng Guillain-Barré (còn được gọi là GBS) và những người đang cảm thấy không khỏe, ví dụ như đang điều trị các bệnh lý nhiễm trùng cấp tính, nên cân nhắc và trao đổi kỹ với bác sĩ trước khi tiêm phòng cúm.
Khi nào nên tiêm phòng cúm?
Việc chủng ngừa cúm có thể thực hiện bất cứ thời điểm nào trong năm để ngăn ngừa tình trạng bị bệnh cúm xảy ra. Vào những thời điểm dễ phát sinh dịch cúm càng nên chủng ngừa nhằm bảo vệ sức khỏe bản thân và ngăn ngừa virus cúm lây lan trong cộng đồng. Thời điểm thích hợp là khoảng 2 tuần trước khi vào mùa dịch vì sau khi tiêm vaccine, cơ thể cần 2 tuần để sản sinh ra để kháng chống lại virus cúm.
Với trẻ em dưới 9 tuổi, sẽ cần tiêm hai liều nên cần bắt đầu quá trình tiêm chủng sớm hơn, do hai liều phải được tiêm cách nhau ít nhất 4 tuần. Ở Mỹ, người dân có xu hướng tiêm ngừa cúm nhiều vào mùa thu, trước khi dịch cúm mùa bắt đầu vào tháng 11. Với Việt Nam, vì là một nước nhiệt đới nên bệnh cúm có thể xảy ra quanh năm, người dân có thể chủng ngừa cúm vào bất kỳ thời gian nào.
Bên cạnh đó các chuyên gia y tế cũng khuyên người dân nên tiêm ngừa cúm vào những thời điểm nhạy cảm về bệnh tật. Ví dụ, thời điểm hiện nay dịch bệnh Covid-19 đang lây lan nhanh và gây hoang mang trong cộng đồng. Việc tiêm ngừa cúm dù không có tác động phòng bệnh viêm đường hô hấp cấp do Covid-19 gây ra, nhưng lại giúp người dân tăng cường sức khỏe miễn dịch chung và giảm nguy cơ mắc phải một loại bệnh truyền nhiễm.
Đặc biệt, các biểu hiện của bệnh cúm có rất nhiều điểm tương tự Covid-19 như sốt, sổ mũi, ho... Nếu một người bị cúm trong thời điểm này với các biểu hiện kể trên sẽ gây lo lắng cho chính bản thân cũng như sự hoang mang cho những người xung quanh và cả sự quá tải cho các cơ sở y tế trong việc chẩn đoán và xét nghiệm.
Anh Ngọc