'Di sản' Việt Nam qua các thế hệ

Gần một nửa dân số Việt Nam hiện nay sinh ra và lớn lên cùng những cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc, nửa còn lại là thế hệ 36 tuổi, hưởng trọn vẹn nền hoà bình những người đi trước mang lại.

“Để con đi thì mất con, nhưng giữ con lại mà mất nước thì mình không yên”.

Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Năm (sinh năm 1927)

“Thế hệ ngoại giao giai đoạn sau 1975 phải mang đến một cái nhìn mới cho thế giới: Việt Nam không phải chiến tranh. Việt Nam là một nước”

Đại sứ Hà Huy Thông (sinh năm 1957),
Trưởng đoàn tiền trạm đi mở Cơ quan Liên lạc tại Mỹ 1994,
Phó đại sứ Việt Nam tại Mỹ năm 1995 - 1997

“Quan trọng không phải tìm được một nắm đất mộ của liệt sĩ, mà là giáo dục cho con em về thế hệ đã hy sinh không tiếc thân mình cho đất nước có ngày hôm nay”

Lê Minh Hạnh (sinh năm 1992), tình nguyện viên Trung tâm Tư vấn
pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho gia đình liệt sĩ (MARIN)

Mục lục

Thế hệ hy sinh
Thế hệ hội nhập
Thế hệ trả ơn

Ở tuổi 98, mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Năm (Nghệ An) chứng kiến trọn vẹn sự chuyển mình của đất nước sau 80 năm lập quốc. Từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến sang nền độc lập dân chủ trọn vẹn, từ nạn đói năm 1945 đến khi thu nhập bình quân đầu người đạt mức 5,4 triệu đồng mỗi tháng - gấp 3,6 lần mức chuẩn nghèo nông thôn.

Cụ Năm là một trong 140.000 mẹ Việt Nam anh hùng có con hy sinh trong các trận chiến bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, chỉ 3.000 mẹ còn sống, rất nhiều trong số đó vẫn đang chờ những đứa con trở về. Họ thuộc thế hệ sinh ra và lớn lên cùng các cuộc chiến đấu vì hoà bình dân tộc và góp phần định hình nên Việt Nam ngày nay.

Nửa còn lại trong 101 triệu dân là thế hệ dưới 35 tuổi, sinh ra trong giai đoạn đất nước hoàn toàn im tiếng súng, tính từ khi các cuộc chiến tranh biên giới kết thúc năm 1990. Họ chỉ biết về sự hy sinh của cha ông qua những câu chuyện kể, và nhiều người trẻ tự tạo ra hành trình trả ơn của riêng mình.

Thế hệ hy sinh

Trong thâm tâm, cụ Năm không muốn cho đứa con trai thứ tư ra chiến trường.

Chỉ trong 3 năm, từ 1968 đến 1970, cụ đã tiễn ba người con lên đường nhập ngũ, không phản đối nửa lời. Đất nước cần những người lính, cụ không muốn giữ các con cho sự ích kỷ của riêng mình.

Theo chân các anh em, năm 1972, anh Giản Viết Mão - lúc đó 22 tuổi - cũng xin bố mẹ tòng quân. Nghĩ về 3 đứa con trai bặt vô âm tín, cụ chần chừ.

“Đêm đó tôi chẳng thể chợp mắt. Sợ để con đi thì mất con, nhưng giữ con lại mà mất nước thì mình không yên”, cụ Năm hồi tưởng.

Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Năm (98 tuổi, thôn Thủy Hồng, xã Đại Đồng, huyện Thanh Chương cũ, Nghệ An) hồi tưởng lại ngày các con lên đường ra trận, tháng 8/2025. Ảnh: Đức Hùng

Tuổi thơ của cụ Năm lớn lên cùng những phong trào cách mạng, từ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 đến Cách mạng Tháng 8 năm 1945. Lòng yêu nước được gieo vào thế hệ 2X-4X như cụ một cách rất tự nhiên.

Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, cụ Năm mới là thiếu nữ 18 tuổi, hoà vào dòng người tới sân bóng xã dự lễ mít tinh. Bà con truyền tai nhau câu chuyện về một người con Nghệ An nay trở thành lãnh tụ mới của đất nước, không giấu niềm tự hào.

"Tôi cùng một số phụ nữ trong xóm ôm chầm lấy nhau khóc. Cuối cùng cũng giành được độc lập rồi", mẹ Năm nhớ lại.

Thế nhưng, độc lập không đồng nghĩa với hòa bình. Sau năm 1945, nước Việt Nam non trẻ trải qua gần 5 thập kỷ chiến đấu - 30 năm thống nhất đất nước và gần 15 năm bảo vệ vùng trời biên giới.

Giai đoạn 1945-1954, cả nước tiếp tục kháng chiến chống Pháp. Những vùng quê miền Trung như Nghệ An trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến.

Cụ Năm cũng giống như nhiều người dân trong làng, vừa sản xuất, vừa nuôi giấu cán bộ, vừa chiến đấu khi cần. Năm hơn 20 tuổi, cụ kết hôn rồi lần lượt sinh được 11 người con - 5 trai, 6 gái.

9 năm trường kỳ kháng chiến khép lại bằng Hiệp định Genève, buộc Pháp rút khỏi Đông Dương. Thế nhưng, Mỹ nhanh chóng thế chân. Việt Nam lại tiếp tục bước vào hai thập kỷ đấu tranh. Thế hệ thanh niên khi ấy đều “xếp bút nghiên lên đường ra trận”. Bốn đứa con trai của cụ Năm cũng lần lượt nối gót nhau ra chiến trường.

Thanh niên tại Hà Nội “xếp bút nghiên” lên đường nhập ngũ theo lệnh tổng động viên. Ảnh tư liệu

Con trai cả Nguyễn Sỹ Hiền là người đầu tiên lên đường nhập ngũ từ năm 1968. Sau đó, người con thứ hai là Nguyễn Thanh Hải và con thứ 6 là Nguyễn Văn Ngọc cũng ra trận.

Suốt 4 năm chống Mỹ, ba đứa con đều bặt vô âm tín. Thế nên, khi anh Mão - con trai thứ ba - xung phong ra trận năm 1972, cụ Năm không đành lòng.

Cả một đêm, cụ trằn trọc nhớ về những trận bom quân địch rải xuống phá tan ruộng đồng, rồi lại nghĩ cảnh đất nước chưa hòa bình, làng quê nghèo không lối thoát. Gia đình bữa đói nhiều hơn bữa no, gạo trộn bo bo và sắn trở thành món ăn thường ngày.

Trong làng, thanh niên đồng trang lứa anh Mão đều lần lượt nhập ngũ, sục sôi ý chí đóng góp cho quê hương. Biết rằng hoà bình mới là tương lai tốt nhất, cụ đành để con lên đường.

Rạng sáng, anh Mão ôm tạm biệt từng người trong nhà, khoác ba lô đi. Mẹ Năm đi bộ tiễn con đến tận Rú Nguộc - cách nhà 5 km, thấy bóng chiếc xe chở Mão khuất hẳn mới chịu trở về.

Cụ không biết rằng đó là lần cuối cùng thấy bóng con.

Anh Mão đánh Mỹ ở chiến trường Bình - Trị - Thiên, suốt nhiều năm không có tin tức gì. Mẹ Năm tự động viên rằng chiến sự khốc liệt, đất nước bị chia cắt nên các con chưa gửi được thư về.

Năm 1972, quân Giải phóng liên tiếp chiến thắng, đánh chiếm nhiều vùng rộng lớn. Thất bại trên chiến trường buộc Mỹ ký Hiệp định Paris, rút toàn bộ quân khỏi Việt Nam.

“Lúc ấy nghĩ ngày giải phóng sắp tới. Các con sắp được về”, cụ Năm kể, ngóng tin thắng trận từng ngày.

Một buổi chiều giữa tháng 2/1975, khi đang làm đồng cách nhà hơn 2 km, mẹ Năm thấy chồng hớt hải ra tìm. Trên tay ông là tờ giấy báo tử, ghi tên: liệt sĩ Giản Viết Mão. Anh hy sinh khi mang hàm Thượng sĩ, chức vụ Tiểu đội trưởng tại chiến trường B4 Trị - Thiên.

"Tôi cầm giấy báo tử chạy một mạch về nhà, vừa chạy vừa khóc. Các con gái ôm chầm lấy nhau giữa sân, cũng khóc nức nở", cụ Năm nói, mắt nhoè lệ.

Cụ chỉ biết cầu nguyện cho ba đứa con trai còn lại trở về an lành, nguyên vẹn.

Hai tấm bằng Tổ quốc ghi công cho hai người con của mẹ Năm. Ảnh: Đức Hùng

Hơn hai tháng sau, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ. Đất nước thống nhất hoàn toàn. Nhưng với cụ Năm, niềm vui ấy không sánh bằng hạnh phúc khi lần lượt đón ba người con trai trở về từ chiến trường.

Tưởng rằng đất nước hoà bình, cụ không ngờ sẽ mất thêm một đứa con nữa vì chiến tranh.

Năm 1978, tiếng súng vang trên bầu trời biên giới Tây Nam. Ngay sau đó, năm 1979, Trung Quốc mở cuộc tấn công trên suốt 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Xung đột quân sự căng thẳng kéo dài thêm nhiều năm, buộc đất nước phải kêu gọi thanh niên ra trận.

Tháng 3/1983, anh Nguyễn Văn Minh, con thứ 7, tình nguyện đăng ký nhập ngũ, tham gia làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia. Gia đình có 4 người từng đi bộ đội, lại có một liệt sĩ, cán bộ đến tận nhà khuyên anh Minh không bắt buộc phải đi lính, nhưng chàng trai trẻ vẫn giữ vững lập trường.

"Đã xung phong rồi thì con cứ đi", cụ Năm ôm vai con thủ thỉ. “Nhưng nhất định phải trở về”.

Lần thứ 5 tiễn con ra trận, cụ dự cảm chẳng lành. Chưa tròn một năm sau, gia đình nhận tin con trai hy sinh ở huyện Preah Sdach, tỉnh Prey Veng, Campuchia.

"Suốt nửa năm, tôi chỉ biết ôm bức ảnh đen trắng hiếm hoi của Minh để lại, khóc không thành tiếng", cụ nói.

Cuối cùng, chiến tranh thật sự kết thúc, nhưng hai con của mẹ Năm không còn được thấy cảnh đất nước trong hoà bình.

Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Huế hiện quy tập hơn 2.000 mộ liệt sĩ, trong đó nhiều người hy sinh trên mặt trận Bình - Trị - Thiên. Nhiều ngôi mộ chưa có danh tính. Ảnh: Võ Thạnh

Thế hệ hội nhập

“Học thì còn nhiều dịp, nhưng mở cơ quan liên lạc với Mỹ thì chỉ có một lần này thôi”, đại sứ Hà Huy Thông (68 tuổi, Hà Nội) thuật lại lời của Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai khi giao ông làm Trưởng đoàn tiền trạm đi mở Cơ quan liên lạc Việt Nam tại Mỹ năm 1994. Trước đó, ông Thông chờ Bộ duyệt cho đi học nước ngoài theo diện học bổng.

Hơn 10 năm công tác trong ngành ngoại giao, ông biết đó là nhiệm vụ quan trọng. Tổng thống Bill Clinton khi ấy vừa tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam ngày 3/2/1994, và đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp cơ quan liên lạc. Thoả thuận đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia “cựu thù”.

Ông Thông hiểu rõ sức nặng lịch sử của nhiệm vụ này.

Đại sứ Hà Huy Thông (sinh năm 1957) trong căn phòng lưu giữ những hình ảnh, kỷ vật trong suốt quá trình hoạt động ngoại giao. Ảnh: Tùng Đinh

Đại sứ Hà Huy Thông kể về những ngày sau khi đất nước thống nhất năm 1975
00:00

Nhớ lại những ngày thống nhất đất nước cuối tháng 4 năm 1975 tại Hà Nội, ông Thông chuẩn bị tốt nghiệp cuối cấp trường Lý Thường Kiệt. Ký ức từ những cuộc sơ tán liên miên vì bom đạn, những lần chứng kiến đồng bào ngã xuống khi chiến đấu chống Mỹ đã nuôi dưỡng trong thế hệ thanh niên 5x-7x như ông khát khao hòa bình.

“Lúc đấy sẵn sàng đi đánh nhau rồi, không ngờ đất nước hoà bình, không còn chết chóc, hy sinh nữa”, ông nói.

Sau năm 1975, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và bắt đầu công cuộc tái thiết thời hậu chiến.

Khi lứa sinh viên cuối cấp như ông Thông vạch hướng đi mới cho một tương lai hoà bình, ông Nguyễn Duy Trinh - lúc này là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao - cũng lên kế hoạch cho một thế hệ ngoại giao phù hợp giai đoạn mới.

Trường Ngoại giao (tiền thân của Học viện Ngoại giao) ra đời từ năm 1959, nhưng giai đoạn 1969-1974 phải ngừng tuyển sinh do chiến sự phức tạp. Theo chỉ đạo của Phó thủ tướng, trường được mở lại, bắt đầu tuyển sinh gấp theo hình thức chọn tuyển thay vì thi tuyển thông thường.

Ông Thông là một trong 48 tân sinh viên được chọn. Khi vào học, ông mới biết 4 tiêu chí được đặt ra khi đó là: Đỗ đại học; có lý lịch tốt; không nói ngọng; và có sức khỏe, ngoại hình phù hợp để làm đối ngoại.

“Làm ngoại giao trở thành bất ngờ lớn nhất của cuộc đời tôi”, ông kể.

Người thanh niên 18 tuổi khi ấy không nghĩ sẽ góp mặt trong nhiều sự kiện lịch sử của đất nước.

Ông Thông (ngoài cùng bên trái) tham gia vòng đàm phán đầu tiên về bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ giữa Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai và Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Đông Á Thái Bình Dương Richard Solomon tại New York (Mỹ), ngày 21/11/1991. Ảnh: Tư liệu nhân vật

Sau khi tốt nghiệp, ông vào làm tại Bộ Ngoại giao. Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên ông được giao là tháp tùng một vị khách đặc biệt vào năm 1982: thiếu tá tình báo Archimedes L.A. Patti - nguyên Trưởng ban Đông Dương của Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ (OSS) - tiền thân của Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA).

Chuyến thăm của một người Mỹ đến Việt Nam là chuyện hiếm gặp khi hai nước đang “đóng băng” quan hệ từ năm 1979.

Ông Patti từng là người nước ngoài duy nhất được Bác Hồ tham khảo ý kiến cho bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, được Bác coi như bạn. Trước khi trở lại Việt Nam, ông đã xuất bản cuốn sách “Tại sao Việt Nam?” (1980), kể lại quá trình Mỹ tham chiến Việt Nam và những kỷ niệm với Bác Hồ.

Ông Hà Huy Thông (giữa) ghi chép buổi trò chuyện giữa ông Archimedes L.A. Patti và Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, ngày 9/9/1982. Ảnh: Tư liệu nhân vật

10 ngày tiếp đón ông Patti trở thành “khóa học” ý nghĩa nhất trong đời ông Thông về tầm nhìn ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh - những điều ông chưa từng được học trong sách vở.

Ông Patti gọi Bác Hồ là “người bạn lớn”, kiên quyết đi thăm tất cả những địa điểm ông từng đến 37 năm trước, và hồi tưởng mọi kỷ niệm từ khi mới gặp mặt Bác Hồ đến lần chia tay sau cùng.

“Nếu Việt Nam vẫn cứ tiếp tục khó khăn thế này thì có lẽ không phải đất nước mà ông Hồ muốn”, ông Patti nói khi vào viếng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thoáng nghe, ông Thông cảm thấy như bị xúc phạm. Nhưng rồi ông hiểu ra khi nghe vị cựu tình báo giải thích: “Đất nước còn nghèo quá”.

Ông Patti kể lại khi soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập tháng 8/1945, Bác Hồ không chỉ nói tới một dân tộc độc lập, tự do, hạnh phúc.

“Bác nói với ông Patti rằng: ‘Dân Việt Nam nghèo quá, phải làm ăn kinh tế. Nếu không tự do hoá thương mại thì các cửa hàng ở Hà Nội mãi chỉ làm ăn nhỏ lẻ. Đất nước không thể thịnh vượng được’. Đây có lẽ là bài học Bác rút ra sau những năm tháng bôn ba ở Anh, Mỹ - những nước tự do hoá thương mại từ sớm”, ông Thông thuật lại.

So với ngày ông Patti đến Việt Nam 37 năm trước, kinh tế Việt Nam đầu thập niên 1980 chưa thật sự khởi sắc.

Sau thất bại năm 1975, Mỹ duy trì nhiều chính sách cấm vận với Việt Nam. Trong khi đó, nguồn viện trợ quốc tế từ Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa suy giảm. Trong nước, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế. Tình trạng lạm phát phi mã, sản xuất nông nghiệp không đáp ứng nhu cầu. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng.

Bối cảnh đó khiến Đại hội Đảng tháng 12/1986 cấp bách đề xướng công cuộc Đổi mới. Đảng cũng bước đầu vạch ra chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế.

Để phá thế bao vây, cấm vận, năm 1988, Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết 13 với chủ trương mang tính bước ngoặt: "thêm bạn bớt thù", đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Từ đây, Việt Nam chuyển hướng chính sách đối ngoại.

Đại sứ Hà Huy Thông kể về chuyến study tour năm 1990 của Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước Phan Văn Khải và Chủ nhiệm Uỷ ban vật giá Phan Thế Tiệm đi tham khảo kinh nghiệm 4 nền kinh tế mới nổi châu Á.
00:00

Tháng 11/1991, ông Thông tham gia vòng đàm phán đầu tiên với Mỹ do Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai dẫn đầu, thảo luận các bước để bình thường hóa quan hệ, từng bước nới lỏng dần cấm vận. Mỹ cho phép tổ chức các dịch vụ du lịch đến Việt Nam, nối lại quan hệ viễn thông, tuyên bố không cấm Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) viện trợ cho Việt Nam…

Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, cuối năm 1994, ông Thông nhận nhiệm vụ Trưởng đoàn tiền trạm đi mở Cơ quan Liên lạc. Trước khi đi, ông được cụ Phạm Văn Đồng - khi đó 88 tuổi, là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dặn dò. Ông ghi kín 4-5 trang giấy những lời căn dặn của hai vị lãnh đạo về cách làm việc với Mỹ.

“Tâm thế lúc đó là gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, ông nói.

Nhiệm vụ quan trọng nhất của đoàn tiền trạm là: Cắm cờ ở Washington (Mỹ) trước 3/2/1995 - tròn một năm kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ.

Khi đó, Chính phủ Mỹ đã mở văn phòng tại Hà Nội từ năm 1991 để giải quyết các vấn đề về quân nhân mất tích trong chiến tranh (Văn phòng MIA), do đó, việc mở cơ quan liên lạc thuận lợi hơn. Trong khi, Việt Nam chưa có cơ quan nào ở Thủ đô Washington. Trước khi đi, ông làm tờ trình kế hoạch, tính toán cẩn thận từng chi tiết: mục đích, yêu cầu, quốc kỳ, quốc huy, tên, biển, con dấu…

“Trong đời tôi chưa gặp một tờ trình nào được phê và góp ý kín như vậy. Tất cả lãnh đạo Bộ Ngoại giao, từ Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, các Thứ trưởng Nguyễn Dy Niên, Trần Quang Cơ, Vũ Khoan, Lê Mai đều có ý kiến chi tiết, kín mấy trang, ghi giờ để biết ai là người đọc sau”, ông kể.

Các nhân viên đầu tiên lập Trụ sở Cơ quan liên lạc cùng Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan (giữa), ngày 8/5/1995. Ông Hà Huy Thông (bên trái ông Vũ Khoan) làm Trưởng đoàn. Ảnh: Tư liệu nhân vật

Trước thời hạn “cắm cờ” 1,5 tháng, cả đoàn mới tới Mỹ. Một trong những ưu tiên của ông Thông là tìm nơi đặt trụ sở cho cơ quan liên lạc.

Mỹ trao cho ông chìa khóa căn nhà R - nay gọi là nhà Việt Nam - tài sản ngoại giao của Việt Nam được Mỹ quản lý hộ gần 20 năm, sau khi cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hoà Bùi Diễm rời đi. Tuy nhiên, ông Thông nhận thấy căn nhà kiểu biệt thự này phù hợp để làm nhà riêng cho Đại sứ hơn là lãnh sự. Sau khi tìm kiếm với sự hỗ trợ của phía Mỹ, ông chọn văn phòng tại một tòa nhà gần đó, sau này trở thành trụ sở Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ từ năm 1995 đến nay.

Ngày 1/2/1995, quốc kỳ Việt Nam chính thức tung bay trên bầu trời nước Mỹ. Cùng lúc đó, cơ quan liên lạc Mỹ cũng làm lễ thượng cờ Mỹ tại Việt Nam, trước khi hai nước lập quan hệ ngoại giao đầy đủ (ngày 12/7/1995) và khai trương (ngày 5/8/1995). Đây được coi là kết quả đầu tiên sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam ra thế giới.

“Phải mất 50 năm từ ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, cờ Việt Nam mới bay trên đất Mỹ, ước nguyện của Bác về tự do hoá thương mại mới dần thành hình”, ông nói.

Sau khi Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam tăng nhanh. Hiện, Mỹ là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 8 của Mỹ. Hai quốc gia từ chỗ cựu thù, nay trở thành Đối tác chiến lược toàn diện.

Năm 2023, Việt Nam và Mỹ chính thức nâng cấp lên Đối tác Chiến lược Toàn diện. Ảnh: Giang Huy

Thế hệ trả ơn

Khi đi tư vấn cho các gia đình liệt sĩ, chị Lê Minh Hạnh (33 tuổi) và các tình nguyện viên tại Trung tâm Tư vấn pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho gia đình liệt sĩ (MARIN) sợ nhất trường hợp tư vấn cho thân nhân có liệt sỹ mất thi hài.

“Không biết nói với gia đình thế nào. Mình không dám nói thẳng là không có mộ, không tìm được... Ai cũng nuôi hy vọng tìm lại người thân, có người nói chỉ cần tìm một nắm đất nơi liệt sĩ hy sinh là vui rồi. Mình từng chứng kiến nên rất hiểu”, chị Hạnh kể.

Từ năm lớp 8, chị Hạnh đã thấy mẹ góp nhặt từng mẩu thông tin để tìm mộ cho bác trai - liệt sĩ Khuất Minh Dũng. Lần đầu mẹ chị đến huyện A Lưới (Huế) nhưng chưa thể xác định vị trí, bà mang một nắm đất đỏ bên đường về, đặt lên bàn thờ bác.

Bác chị nằm trong khoảng 1,2 triệu liệt sĩ Việt Nam. 75% số này đã được an táng tại các nghĩa trang, còn lại khoảng 300.000 hài cốt chưa xác định được danh tính, và 175.000 liệt sĩ từ đang tiếp tục được tìm kiếm, quy tập, theo số liệu năm 2024 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũ.

Sinh năm 1992, chị Hạnh lớn lên trong gia đình cả ông bà nội và ông bà ngoại đều tham gia chiến đấu cho cách mạng. Ảnh: Võ Thạnh

Ông bà ngoại Hạnh là cán bộ Tiền khởi nghĩa, từng có công trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, sau đó tham gia hoạt động chính trị tại miền Bắc, sinh được 6 người con. Bác Dũng là con thứ ba. Năm 18 tuổi, bác chị quyết tâm nhập ngũ dù đã có giấy triệu tập đi học Đại học Tổng hợp. Sau một năm huấn luyện và một năm tham gia chiến đấu, bác hy sinh trên chiến trường A Lưới, Huế, năm 1973 - khi mới 20 tuổi.

Năm 2006, kinh tế gia đình khá hơn, mẹ chị bắt đầu công cuộc tìm kiếm mộ anh trai, mong muốn hoàn thành ước nguyện của ông bà ngoại khi còn sống. Nhờ Trung tâm Tư vấn pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho gia đình liệt sĩ (MARIN), bà có thêm một số manh mối.

“Tìm mộ liệt sĩ là cuộc chiến dài kỳ. Phải có kiến thức, kinh phí, sức khỏe và cả sự phân tích, có nhiều người giúp sức và cả may mắn mới hy vọng tìm được”, chị Hạnh đúc kết sau hơn 10 năm tư vấn cho thân nhân các liệt sĩ.

Mẹ chị kết nối với các đồng đội cũ - những người từng chôn cất bác, mời cả đoàn trở lại chiến trường xưa - đỉnh núi Pahy (A Lưới, Huế) để tìm lại nơi đóng quân. Sau 35 năm, họ chỉ bám vào mảnh ký ức “nơi chôn cất gần gốc cây đổ rất to” để mày mò tìm kiếm. Năm 2008, sau 4 chuyến khảo sát, cả đoàn mới tìm thấy gốc cây đổ, nay đã mục nát, chỉ còn phần lõi.

Khuất Minh Dũng Memorial Diary
 
 

Cuộc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ Khuất Minh Dũng của gia đình chị Lê Minh Hạnh. Video: Tư liệu gia đình

“Đây, chính xác rồi”, người đồng đội hô lên khi nhìn thấy mảnh tăng võng trộn với lớp đất đá. Đào thêm, họ tìm thấy một ít hài cốt và các di vật đi kèm như nilon, dây thừng, miếng dép cao su, đầu bút máy… Tuy nhiên, không có dấu hiệu nào để xác định chính xác danh tính của từng liệt sĩ, chỉ có thể tin theo lời kể của các đồng đội.

35 năm sau chiến tranh, xương chỉ còn vỏ. Khi gia đình mang mẫu xương đến Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 để xét nghiệm, bác sĩ nhận định “xương không đủ chất lượng” để giám định. Tuy nhiên, dựa theo phương pháp thực chứng từ các thông tin thu thập được, gia đình chị tin rằng những hài cốt tìm được là của bác trai. Năm 2008, bia mộ liệt sĩ Khuất Minh Dũng được dựng tại Nghĩa trang liệt sĩ TP Huế.

Để tưởng nhớ bác, mẹ chị tự biên tập và in một cuốn sách gia đình mang tên Người chiến sĩ trên mỏm Pahy, lưu lại những câu chuyện của bác.

“Mẹ muốn những thế hệ con cháu như mình luôn nhớ về bác - người từng sống, chiến đấu hết mình và hi sinh vì hòa bình của đất nước”, chị Hạnh kể.

Chị Lê Minh Hạnh và mẹ viếng liệt sĩ Khuất Minh Dũng tại nghĩa trang Liệt sĩ TP Huế, tháng 8/2025. Ảnh: Võ Thạnh

Song hành cùng hành trình của mẹ, chị Hạnh nghe nhiều câu chuyện về chiến tranh, và bị cuốn hút bởi những hoạt động của Trung tâm MARIN với nguyện vọng xoa dịu nỗi đau hậu chiến. Năm 2011, khi vừa bước vào năm nhất đại học, Hạnh chính thức làm tình nguyện tại đây, cũng là lứa tình nguyện viên trẻ đầu tiên của trung tâm - hầu hết đều là con cháu hoặc thân nhân gia đình liệt sĩ.

Những ngày đó, ngoài giờ học và làm gia sư, thời gian còn lại của Hạnh hầu như đều dành cho các hoạt động của MARIN: tư vấn thân nhân, sắp xếp hồ sơ, tra cứu thông tin liệt sĩ, ghép nối dữ liệu…

Hoạt động tìm mộ liệt sĩ khi ấy rất sôi nổi. Ngày vắng nhất, trung tâm tiếp 3-4 thân nhân, ngày đông có thể phải làm việc liên tục từ 8h sáng đến chiều muộn.

“Họ khi ấy cũng giống như mẹ mình, là anh chị em hay thế hệ con cháu đã 40-50 tuổi, vững chãi về mặt kinh tế, ổn định gia đình, sự nghiệp, mới có thời gian, tâm sức đi tìm mộ liệt sĩ”, chị Hạnh nói.

Số người đến xin tư vấn đông, nhưng thông tin hầu hết rất mù mờ, thường chỉ có tờ giấy báo tử mờ nhoè với những dòng chữ, phiên hiệu mà không nhiều người hiểu hết ý nghĩa. Nhiều khu vực như Thanh Hóa, Nghệ An - Hà Tĩnh, thân nhân mất hết giấy tờ liệt sĩ do lũ lụt.

“Tìm mộ liệt sĩ như tranh ghép hình, phải tìm đủ thông tin và cả sự may mắn mới có bức tranh hoàn chỉnh. Nhưng tỷ lệ khả thi rất thấp. Gia đình mình có lúc cũng muốn bỏ cuộc”, chị kể.

Sau mấy năm đầu, MARIN nhận thấy tư vấn trực tiếp chỉ giúp được những trường hợp đơn lẻ, trong khi, tất cả các thân nhân đều cần kiến thức để tìm mộ liệt sĩ. Từ năm 2009, MARIN triển khai các hoạt động tư vấn lưu động với mong muốn phổ cập kiến thức này đến thật nhiều thân nhân liệt sĩ ở nhiều vùng quê trên đất nước. Mục tiêu không chỉ là giúp thân nhân liệt sĩ có thêm kiến thức trên hành trình tìm người thân, mà còn để nạn nhân của cuộc chiến dịu lòng hơn với mất mát.

“Quan trọng không phải là tìm được một nắm đất mộ người thân, mà là giáo dục cho con em về những thế hệ đã hy sinh không tiếc thân mình cho đất nước để ta có ngày hôm nay”, Hạnh nói.

Chị Lê Minh Hạnh (áo trắng, giữa) hỗ trợ tư vấn thông tin tìm mộ liệt sĩ cho gia đình thân nhân. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Những ngày cuối tháng 8, cụ Nguyễn Thị Năm ngồi trước hiên nhà, tay mân mê tấm huy hiệu công nhận Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Xem một hồi, cụ lại cẩn thận cất huy hiệu vào hộp sắt, để lên bàn thờ hai con - nơi chỉ có bát hương và bài vị hai liệt sĩ Nguyễn Văn Minh và Giản Viết Mão.

Xem một hồi, cụ Năm lại cẩn thận cất huy hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào hộp sắt, để lên bàn thờ hai con - nơi chỉ có bát hương và bài vị hai liệt sĩ Nguyễn Văn Minh và Giản Viết Mão.

“Danh hiệu này là của các con. Chúng mới là những anh hùng, không phải mẹ”, cụ nói.

Gia đình đã 4-5 lần lần theo giấy báo tử đi tìm mộ hai liệt sĩ ở các tỉnh miền Nam, tuy nhiên đều không có kết quả. Vài năm trước, Sở Lao động Thương binh và Xã hội cũ (nay là Sở Nội vụ), cử cán bộ tới nhà lấy mẫu ADN của mẹ để hỗ trợ xác minh danh tính hai liệt sĩ, song qua nhiều năm kết quả vẫn là con số 0.

"Đất nước đã hoà bình rồi, nhưng các con vẫn mãi chưa về”, mẹ Nguyễn Thị Năm, mắt ngấn lệ nhìn ra khoảng sân nơi lần cuối tiễn các con ra trận.

Huy hiệu của Nhà nước công nhận Bà mẹ Việt Nam anh hùng được mẹ Nguyễn Thị Năm gìn giữ cẩn thận qua năm tháng. Ảnh: Đức Hùng

Nội dung: Thu Hằng - Đức Hùng - Mây Trinh

Ảnh: Đức Hùng - Tùng Đinh - Võ Thạnh - Hiếu Lương

Đồ họa: Thanh Hạ