Tôi ngạc nhiên hỏi trong điều kiện chưa có chương trình nghiên cứu thì làm sao có thể công bố 3-4 bài một năm. "Chiến thuật" của anh là dùng dữ liệu của người khác rồi tổng hợp thành một bài báo dạng meta-analysis (một dạng tổng quan) và báo cáo những ca lâm sàng. Còn công bố ở đâu thì đã có tập san bên Trung Đông sẵn sàng chấp nhận.
Chiến lược chạy theo con số bài báo khoa học xuất phát từ quy định của Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước. Theo quy định hiện hành, ứng viên chức danh PGS/GS phải là tác giả chính của ít nhất ba bài báo (PGS) hay năm bài (GS) đã công bố trên các tập san khoa học uy tín. Ngoài số bài báo, quy định còn có những công thức tính điểm mang tính trung bình hóa, gây khó hiểu về cơ sở khoa học đằng sau các công thức đó. Nhìn chung, quy định hiện hành đặt nặng định lượng hơn là siết chặt phẩm chất của các công bố khoa học.
Sự lệ thuộc vào con số có thể xem là một sai lầm. Định luật Goodhart phát biểu rằng khi một thước đo trở thành mục tiêu thì thước đo đó không còn ý nghĩa nữa. Con số bài báo khoa học là một thước đo về mức độ hoạt động khoa học, chứ không phản ảnh thành tựu nghiên cứu. Khi con số bài báo trở thành mục tiêu, người ta sẽ tìm mọi cách để đạt được con số mà bỏ qua phần phẩm chất khoa học.
Nhưng phẩm chất quan trọng hơn số lượng. Tập san có tầm ảnh hưởng cao chỉ công bố những công trình nghiên cứu có phẩm chất khoa học cao. Do đó, chỉ cần nhìn vào tập san mà ứng viên công bố là người đánh giá có thể biết đẳng cấp của ứng viên. Ứng viên có thể có hàng trăm bài báo khoa học, nhưng nếu chỉ đăng trên các tập san có ảnh hưởng thấp, thì nó chỉ nói lên phẩm chất khoa học tầm thường của ứng viên mà thôi.
Đề bạt và bổ nhiệm chức danh là nhằm ghi nhận và phát hiện những nhà khoa học xuất sắc. Nhưng tôi e rằng bộ tiêu chuẩn hiện hành không đạt được mục tiêu đó.
Vài năm gần đây, vấn đề công nhận chức danh GS/PGS còn bị sai lệch bởi sự xuất hiện của các tập san rởm (predatory journals). Đây là những trạm internet giả danh tập san khoa học chuyên "xuất bản" những bài báo lừa bịp để lấy tiền. Trên thế giới có hơn 12.000 tập san rởm như thế, và mỗi năm họ công bố hơn 450.000 bài báo hoàn toàn không có giá trị khoa học. Đó là một bãi rác thông tin rất lớn. Rất nhiều nhà khoa học ở các nước đang phát triển là nạn nhân của kỹ nghệ này. Riêng Việt Nam, tôi ước tính có hơn 500 bài trên các tập san rởm trong 10 năm qua.
Có không ít hồ sơ ứng viên chức danh GS/PGS liệt kê những bài báo trên tập san rởm. Hiện tượng này đã xuất hiện hơn 5 năm qua nhưng chỉ mới được nêu lên gần đây. Năm 2020, có 37 ứng viên GS/PGS trong ngành y liệt kê nhiều bài báo rởm, nhưng vẫn được công nhận. Năm nay, báo chí cũng nêu một số trường hợp bài báo trên tập san rởm, được hội đồng thông qua. Sự việc có lẽ nói lên năng lực thẩm định của vài hội đồng ngành.
Trong nhiều trường hợp, vì áp lực có đủ bài báo, ứng viên lờ đi quy ước về đạo đức công bố (publication ethics) để chọn các tập san rởm.
Ngoài ra, sự lệ thuộc vào số lượng bài báo có thể dẫn đến một số vi phạm đạo đức khoa học. Những vi phạm bao gồm trả tiền cho các "tác giả ma" trên mạng soạn bài báo; mua bài báo khoa học từ các công ty chuyên viết mướn; xé lẻ dữ liệu để viết nhiều bài báo khoa học (hiện tượng salami publication). Những loại bài báo khoa học đó không tạo ra kiến thức mới mà chỉ làm nhiễu khoa học. Những vi phạm như thế khá phổ biến ở Trung Quốc và Trung Đông, nhưng đã nhen nhúm ở Việt Nam.
Ở các nước phương Tây, ví dụ như Australia, các đại học có hội đồng khoa bảng riêng, và họ không đề ra con số bài báo khoa học như là tiêu chuẩn xét chức danh giáo sư. Các bộ tiêu chuẩn của họ nhấn mạnh đến chất lượng nghiên cứu khoa học, thể hiện qua tập san công bố và tầm ảnh hưởng trong chuyên ngành. Nếu là cấp phó giáo sư, hội đồng kỳ vọng ứng viên có tầm ảnh hưởng cấp quốc gia, còn giáo sư thì tầm ảnh hưởng quốc tế.
Những lùm xùm trong thời gian gần đây là cơ hội để chỉnh sửa lại bộ tiêu chuẩn và quy trình công nhận chức danh GS/PGS. Bộ tiêu chuẩn mới nên đặt phẩm chất khoa học là tiêu chuẩn quan trọng số một, và tầm ảnh hưởng hay tác động là tiêu chuẩn quan trọng số hai.
Phẩm chất khoa học và tầm ảnh hưởng, chứ không phải số lượng bài báo, làm nên một giáo sư.
Nguyễn Văn Tuấn