Nội dung marathon diễn ra vào hai ngày cuối. Trong đó, cuộc đua nữ vào lúc 12h ngày 26/8 giờ Hà Nội. Các chân chạy nam tranh tài sau đó một ngày, cùng khung giờ.
Ở nội dung nam, tại Oregon 2022, Tola lập kỷ lục của giải với thành tích 2 giờ 5 phút 36 giây. 13 tháng sau, runner Ethiopia có cơ hội ghi tên vào nhóm hiếm những VĐV marathon vô địch hai giải liên tiếp. Trong lịch sử, chỉ ba runner nam chạm tới cột mốc này, gồm Abel Anton (người Tây Ban Nha, năm 1997, 1999), Jaouad Gharib (Morocco, 2003, 2005), và Abel Kirui (Kenya, 2009, 2011).
Năm ngoái, Tola thể hiện đẳng cấp vượt trội khi chạy 10 km cuối trong 28 phút 31 giây để về nhất, trước đồng hương Mosinet Gerenew tới 1 phút 8 giây. Anh duy trì phong độ cao năm nay khi về ba tại London Marathon hồi tháng 4 với 2 giờ 4 phút 59 giây, sau Kelvin Kuptum (2 giờ 1 phút 25 giây) và Geoffrey Kamworor (2 giờ 4 phút 23 giây).
Kuptum và Kamworor đều không tranh tài tại Budapest năm nay, nhưng Tola vẫn đối mặt thử thách lớn để bảo vệ ngôi vô địch khi tranh tài với hai runner Kenya chạy nhanh hơn anh trong năm nay. Timothy Kiplagat đạt thành tích 2 giờ 3 phút 50 giây khi về nhì sau Bashir Abdi của Bỉ ở Rotterdam Marathon vào tháng 4. Abdi - runner giành HC đồng ở Oregon 2022 - không dự giải năm nay, nhưng Kiplagat sẽ tham gia cùng đội Kenya với Joshua Belet - người về nhì tại Hamburg Marathon vào tháng Tư với thời gian 2 giờ 4 phút 33 giây.
Một runner Kenya được chú ý khác là Titus Kipruto - người đứng thứ tư tại Tokyo Marathon 2023 với thời gian 2 giờ 5 phút 32 giây và có thành tích tốt nhất (PB) là 2 giờ 4 phút 54 giây khi về nhì ở Amsterdam năm ngoái.
Nhưng Budapest 2023 không chỉ là cuộc chơi của những runner tới từ Kenya và Ethiopia - hai cường quốc về marathon ở Đông Phi. Abdi Nageeye (Hà Lan) cũng là cái tên đáng chú ý. Runner 34 tuổi về nhì sau huyền thoại Eliud Kipchoge tại Tokyo 2021, cán đích thứ ba tại New York 2022 và Rotterdam hồi tháng 4.
Alphonce Felix Simbu của Tanzania là VĐV marathon dày dạn kinh nghiệm cho các giải lớn. Runner 31 tuổi đã giành HC đồng thế giới ở London 2017 và HC bạc tại Commonwealth Games ở Birmingham năm ngoái. Anh cũng về thứ năm và thứ bảy trong hai cuộc thi marathon Olympic gần nhất.
Nhà vô địch Commonwealth Victor Kaplangat tham gia cùng đội Uganda với Stephen Kissa - người lập kỷ lục quốc gia 2 giờ 4 phút 48 giây tại Hamburg năm ngoái. Mohamed Reda El Aarby của Morocco đứng thứ hai tại New York 2021 và thứ tư vào năm ngoái.
Còn có loạt elite đạt sub 2:06 tại Budapest 2023, gồm Gashu Ayale của Israel - người từn giành HC đồng châu Âu, Kaan Kigen Ozbilen của Thổ Nhĩ Kỳ, Goitom Kifle và Oqbe Kibrom của Eritrea, cùng với bộ đôi người Nhật Bản Kenya Sonota và Ichitaka Yamashita.
Ở nội dung nữ, tại Oregon năm ngoái, Gebreslase lập kỷ lục giải đấu với 2 giờ 18 phút 11 giây. Tới Budapest, runner Ethiopia sẽ phải đánh bại hai trong số sáu runner nữ nhanh nhất mọi thời đại để bảo vệ danh hiệu.
Gebreslase - nhà vô địch 3.000m U18 thế giới năm 2011 - không thể theo kịp hai runner này tại Boston với lộ trình dốc vào tháng Tư, khi cán đích thứ mười trong cuộc đua marathon duy nhất của cô trong năm với thời gian 2 giờ 24 phút 34 giây. Gebreslase kém tám bậc và về đích sau 2 phút 44 giây so với đồng hương Amane Beriso - người giành HC bạc, sau Hellen Obiri.
Ở tuổi 31, Beriso vẫn duy trì phong độ cao khi vượt mặt nhà vô địch thế giới cự ly 10.000m Letesenbet Gidey để giành HC vàng Valencia 2022 với thành tích 2 giờ 14 phút 58 giây. Đây là thành tích marathon tốt thứ ba của nữ trong lịch sử, chỉ sau Brigid Kosgei (2 giờ 14 phút 4 giây) và Ruth Chepngetich (2 giờ 14 phút 18).
Gebreslase cũng sẽ phải cạnh tranh với Rosemary Wanjiru - runner Kenya vượt mặt Gidey để giữ thành tích tốt thứ sáu trong lịch sử khi vô địch Tokyo vào tháng Ba với thời gian 2 giờ 16 phút 28 giây. Wanjiru - runner đứng thứ tư ở chung kết 10.000m thế giới tại Doha năm 2019 - đạt thành tích ra mắt marathon tốt bậc nhất trong lịch sử - 2 giờ 18 phút - khi giành ngôi Á quân, sau Tigist Assefa của Ethiopia ở Berlin năm ngoái.
Ngoài Gebreslase, năm người khác cán đích trong top 10 tại Oregon 2022 sẽ tranh tài ở giải năm nay, gồm VĐV giành HC đồng Lonah Chemtai Salpeter của Israel, người đứng thứ tư Nazret Weldu của Eritrea cùng Keira D'Amato của Mỹ (hạng tám), Mizuki Matsuda của Nhật Bản (thứ chín) và Citiali Moscote của Mexico (thứ 10).
Giải đấu còn có sự góp mặt của runner nữ nhanh thứ hai trong năm 2023, là Tsehay Gemechu, VĐV Ethiopia về nhì sau Wanjiru ở Tokyo với thời gian 2 giờ 16 phút 56 giây, và nhà vô địch thế giới marathon năm 2017 Rose Chelimo người Bahrain. Yalemzerf Yehualaw là niềm hy vọng giành huy chương khác của Ethiopia. Cô hiện giữ kỷ lục 10 km thế giới và đạt thành tích 2 giờ 17 phút 23 giây trong lần đầu chạy marathon năm ngoái, vô địch London 2022 rồi đứng thứ năm tại giải năm nay.
Trong khi đó, Wanjiru sẽ tham gia cùng đội Kenya với Selly Kaptich - người giành HC đồng half marathon thế giới năm 2014 và đứng thứ ba tại Berlin 2019, cùng Shyline Jepkorir - nhà vô địch tại Enschede hồi tháng Tư với thời gian 2 giờ 22 phút 45 giây.
Lisa Weightman của Australia cũng được đánh giá cao khi từng hai lần giành huy chương Commonwealth và đứng thứ tư tại Osaka hồi tháng Hai với thời gian 2 giờ 23 phút 15 giây. Một elite khác là Aleksandra Lisowska của Ba Lan - người đã bứt phá ở 2km cuối để vô địch châu Âu ở Munich 12 tháng trước.
Hồng Duy