Nhận định được giáo sư đưa ra trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam của Viện Vi sinh và Chống dịch Stanford (Mỹ) từ 13-16/12. GS Harry B. Greenberg đã chứng kiến quy trình tiêm chủng an toàn, bảo quản vaccine, hệ thống kho lạnh và dây chuyền lạnh, danh mục vaccine đa dạng được nhập khẩu chính hãng. Ông đánh giá chưa có nơi nào trên thế giới xây dựng mô hình chủng ngừa quy mô, riêng biệt, đưa tiêm chủng trở thành niềm vui tương tự VNVC.
"Những bà mẹ ẵm con nhỏ đến VNVC chủng ngừa trong nụ cười đã nói lên điều này", GS.BS Harry B. Greenberg nói.
Cố vấn Viện Stanford đánh giá cao năng lực y tế dự phòng tại VNVC, cho rằng mô hình của hệ thống tiêm chủng là duy nhất trên thế giới, có thể công bố trên các tạp chí quốc tế về hình mẫu triển khai vaccine đáp ứng đầy đủ yêu cầu của người dân.
Ông cũng ấn tượng với quy trình tiêm chủng nhanh chóng, người dân được hướng dẫn đăng ký, khám sàng lọc, theo dõi sau tiêm, được lưu giữ và tra cứu lịch sử tiêm chủng, nhắc lịch tiêm chủ động. Ở Mỹ, những người khỏe mạnh thông thường có thể phải mất đến 6 tháng mới xếp được lịch hẹn thăm khám sức khỏe với một bác sĩ.
"Mô hình VNVC đóng góp lớn vào sự phổ cập tiêm vaccine không chỉ ở Việt Nam mà cả thế giới", giáo sư Harry B. Greenberg cho biết.
Tại buổi làm việc, giáo sư Harry B. Greenberg cũng chia sẻ về việc nghiên cứu thúc đẩy phát triển vaccine Rotavirus. Ông cho biết trẻ em mắc nhiều bệnh tiêu chảy và tử vong trong hai đến năm năm đầu đời, virus Rota là nguyên nhân gây tử vong của hàng trăm nghìn trẻ sơ sinh mỗi năm. Vaccine giúp giảm tỷ lệ tử vong thông qua giảm tỷ lệ nhập viện và trở nặng.
Trao đổi về việc mở rộng độ tuổi sử dụng vaccine Rotavirus cho trẻ em dưới 5 tuổi thay vì chỉ giới hạn 8 tháng tuổi như hiện nay, giáo sư Harry B. Greenberg cho rằng tỷ lệ tử vong thực sự xảy ra chủ yếu trong 6 tháng đến một năm đầu sau sinh. Đa số trẻ em nhiễm tác nhân Rotavirus khi dưới một tuổi. Vì vậy, việc sử dụng vaccine Rotavirus càng sớm càng tốt và phải đạt tỷ lệ 80-90% mới mang lại hiệu quả tối ưu và không cần tăng độ tuổi.
Giáo sư Harry B. Greenberg cũng đánh giá cao VNVC khi đã sử dụng hàng triệu liều vaccine Rotavirus mỗi năm để bảo vệ sức khỏe trẻ em, đồng thời cải thiện nỗi lo tiêm vaccine của nhiều người nhờ việc đảm bảo tốt an toàn tiêm chủng và những dự án truyền thông, giáo dục cộng đồng.
Tại Việt Nam, tiêu chảy do virus Rota là bệnh phổ biến thứ hai sau nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính ở trẻ. Cứ 2 trẻ nhập viện vì tiêu chảy thì một trẻ bị tiêu chảy cấp do virus này gây ra. Giai đoạn 1998 - 2003, mỗi năm Việt Nam ghi nhận 5.300 đến 6.800 trẻ dưới 5 tuổi tử vong vì bệnh này.
Hiện bệnh vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Chủng ngừa là biện pháp phòng bệnh hiệu quả, giảm biến chứng và tỷ lệ nhập viện. Các nghiên cứu đã chứng minh vaccine có hiệu quả lên đến 98% trong việc ngăn ngừa bệnh tiêu chảy nặng và 74-87% trong việc ngừa bệnh do Rotavirus ở bất kỳ mức độ nào trong năm đầu tiên sau uống vaccine.
Harry B. Greenberg là giáo sư về vi trùng học, miễn dịch học và y học, hiện là cố vấn Viện Vi sinh & Chống dịch Stanford. Ông từng đứng đầu nhóm nghiên cứu, phát minh vaccine Rotavirus thế hệ một, được cấp phép sử dụng cho trẻ em năm 1998.
Từ đó đến nay, ông tiếp tục nghiên cứu về vi sinh và miễn dịch học. Ông cũng là một trong những người đầu tiên phát hiện ra virus viêm gan B và tiến hành liệu pháp kháng siêu vi.
Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, giáo sư Harry B. Greenberg cũng tham dự hội thảo khoa học trao đổi nghiên cứu, ứng dụng mới trong điều trị bệnh và các vấn đề y tế cấp thiết tại Việt Nam. Tại hội thảo, BS.CKI Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa Hệ thống tiêm chủng VNVC cũng đưa ra bàn luận tìm cách đối phó tốt hơn về các bệnh truyền nhiễm cơ bản tại Việt Nam và vaccine phòng bệnh cùng các chuyên gia thế giới...
Hoàng Lan
VNVC là đối tác lớn của các hãng vaccine lớn trên thế giới như GSK (Bỉ), MSD (Mỹ), Sanofi (Pháp), Pfizer (Mỹ), Abbott..., cung cấp hầu hết vaccine phòng bệnh quan trọng, giá bình ổn cho người dân. Đơn vị tiếp tục nâng cao kiến thức, xây dựng thói quen về tiêm chủng và vaccine cho cộng đồng, nâng cao tỷ lệ các loại vaccine như cúm, phế cầu, bạch hầu, ho gà, uốn ván... tăng dần qua các năm. Sau gần 10 năm thành lập, đến nay VNVC đã có hơn 150 trung tâm tại gần 50 tỉnh, thành trên cả nước, kể cả các địa phương vùng sâu vùng xa, giúp việc tiếp cận vaccine của người dân ngày càng dễ dàng và thuận lợi.